Đối với các nước phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, tham gia vào nền kinh tế
quốc tế và khu vực là việc phát triển tất yếu. Nhận thức được xu thế của thời đại, trong những
năm qua, hệ thống NHVN luôn luôn đổi mới, vươn lên để đủ sức cạnh tranh với các NH đa
quốc gia. Các NHTM đã không ngừng củng cố và hoàn thiện để phù hợp với nền kinh tế thị
trường như hiện nay. Trong đó Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam với phương châm “ hợp
tác cùng phát triển” đã luôn cố gắng đổi mới công nghệ cung cấp những dịch vụ NH mới. Nhận
thức được rằng kinh doanh các nghiệp vụ NH là hoạt động then chốt của các NHTM trong bối
cảnh hội nhập, NH ngày càng chú trọng đến việc cung cấp các dịch vụ của mình. Một trong
những lĩnh vực khá mới mẻ là hoạt động kinh doanh Thẻ tín dụng đã được Ngân Hàng Ngoại
Thương Việt Nam triển khai thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế và góp
phần hiện đại hoá NH.
Là phương tiện thanh toán hiện đại, phổ biến ở hầu hết các quốc gia phát triển và đang
phát triển trên thế giới, không những có thể sử dụng trong nước mà còn có thể sử dụng trên thị
trường quốc tế. Tuy nhiên tại Việt Nam một thị trường được coi là rất tiềm năng thì việc thanh
toán bằng thẻ lại chưa thực sự là một phương tiên thanh toán thông dụng. Việc thanh toán chỉ
diễn ra ở một số thành phố lớn như: HN, TP HCM, HP, và một số thành phố lớn khác, do điều
kiện kinh tế xã hội và dân trí…
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về mọi mặt của kinh tế, xã hội, nỗ lực
của các NHTM mà điển hình la Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, một trong những NH đi
tiên phong trong việc ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, việc thanh toán bằng thẻ đang
ngày càng phát triển và khẳng định vị trí ưu việt trong lĩnh vực của mình. Do đó để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, để Thẻ tín dụng phát huy được những tiện ích trong
công tác thanh toán, phục vụ khách hàng
một cách an toàn, tiện lợi và nhânh chóng thì ngành NH Việt Nam noi chung và Ngân Hàng
Ngoại Thương Việt Nam nói riêng cần phải không ngừng mở rộng thị trường thanh toán thẻ
quốc tế, nội địa, phát triển nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ.
Kinh doanh Thẻ tín dụng là một hoạt động kinh doanh quan trọng, một sản phẩm dịch
vụ có khaw năng tạo một bước đột phá trong việc tăng tỷ trọng thanh tóan không dùng tiền mặt
trong dân cư, nâng cao dân trí, tạo điều kiện quản lý xã hội và kinh tế hiệu quả hơn, tuy nhiên
vẫn còn tồn tại nhiều bất cập phải xử lý. Trên cơ sở nhận thức được tính cấp thiếp của vấn đề
trên, sau một thời gian thực tập tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam. đi sâu vào tìm hi ểu
thực tế, em đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh Thẻ tín dụng tại Ngân
Hàng Ngoại Thương Việt Nam” cho chuyên đề thực tập của mình
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Thẻ tín dụng
Chương 2: Thực trang kinh doanh Thẻ tín dụng tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh Thẻ tín dụng taị Ngân Hàng
Ngoại Thương Việt Nam.
71 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2497 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh Thẻ tín dụng tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh
doanh Thẻ tín dụng tại Ngân Hàng
Ngoại Thương Việt Nam
Lời mở Đầu
Đối với các nước phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng, tham gia vào nền kinh tế
quốc tế và khu vực là việc phát triển tất yếu. Nhận thức được xu thế của thời đại, trong những
năm qua, hệ thống NHVN luôn luôn đổi mới, vươn lên để đủ sức cạnh tranh với các NH đa
quốc gia. Các NHTM đã không ngừng củng cố và hoàn thiện để phù hợp với nền kinh tế thị
trường như hiện nay. Trong đó Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam với phương châm “ hợp
tác cùng phát triển” đã luôn cố gắng đổi mới công nghệ cung cấp những dịch vụ NH mới. Nhận
thức được rằng kinh doanh các nghiệp vụ NH là hoạt động then chốt của các NHTM trong bối
cảnh hội nhập, NH ngày càng chú trọng đến việc cung cấp các dịch vụ của mình. Một trong
những lĩnh vực khá mới mẻ là hoạt động kinh doanh Thẻ tín dụng đã được Ngân Hàng Ngoại
Thương Việt Nam triển khai thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế và góp
phần hiện đại hoá NH.
Là phương tiện thanh toán hiện đại, phổ biến ở hầu hết các quốc gia phát triển và đang
phát triển trên thế giới, không những có thể sử dụng trong nước mà còn có thể sử dụng trên thị
trường quốc tế. Tuy nhiên tại Việt Nam một thị trường được coi là rất tiềm năng thì việc thanh
toán bằng thẻ lại chưa thực sự là một phương tiên thanh toán thông dụng. Việc thanh toán chỉ
diễn ra ở một số thành phố lớn như: HN, TP HCM, HP, và một số thành phố lớn khác, do điều
kiện kinh tế xã hội và dân trí…
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển về mọi mặt của kinh tế, xã hội, nỗ lực
của các NHTM mà điển hình la Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam, một trong những NH đi
tiên phong trong việc ứng dụng thanh toán không dùng tiền mặt, việc thanh toán bằng thẻ đang
ngày càng phát triển và khẳng định vị trí ưu việt trong lĩnh vực của mình. Do đó để đáp ứng
nhu cầu ngày càng tăng của nền kinh tế, để Thẻ tín dụng phát huy được những tiện ích trong
công tác thanh toán, phục vụ khách hàng
một cách an toàn, tiện lợi và nhânh chóng thì ngành NH Việt Nam noi chung và Ngân Hàng
Ngoại Thương Việt Nam nói riêng cần phải không ngừng mở rộng thị trường thanh toán thẻ
quốc tế, nội địa, phát triển nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ.
Kinh doanh Thẻ tín dụng là một hoạt động kinh doanh quan trọng, một sản phẩm dịch
vụ có khaw năng tạo một bước đột phá trong việc tăng tỷ trọng thanh tóan không dùng tiền mặt
trong dân cư, nâng cao dân trí, tạo điều kiện quản lý xã hội và kinh tế hiệu quả hơn, tuy nhiên
vẫn còn tồn tại nhiều bất cập phải xử lý. Trên cơ sở nhận thức được tính cấp thiếp của vấn đề
trên, sau một thời gian thực tập tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam. đi sâu vào tìm hiểu
thực tế, em đã chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh Thẻ tín dụng tại Ngân
Hàng Ngoại Thương Việt Nam” cho chuyên đề thực tập của mình
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về Thẻ tín dụng
Chương 2: Thực trang kinh doanh Thẻ tín dụng tại Ngân Hàng Ngoại Thương Việt
Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh Thẻ tín dụng taị Ngân Hàng
Ngoại Thương Việt Nam.
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thẻ tín dụng
1.1. Tổng quan về thẻ:
1.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của thẻ:
*Lịch sử hình thành của thẻ:
Sự ra đời của thẻ thanh toán xuất phát từ sự thay đổi chiến lược khách hàng của ngân
hàng. Trước thế kỷ 18, đặc trưng của ngân hàng là sở hữu tư nhân , quản trị ngân hàng mang
tính chất gia đình, khách hàng gửi tiền là tầng lớp thượng lưu, khách hàng vay vốn là những
người thân quen thường gọi là khách hàng truyền thống. Thời kỳ công nghiệp hoà thế kỷ 19,
ngân hàng tư nhân đã bị thay thế bằng ngân hàng cổ phần vì không đáp ứng được yêu cầu vốn
to lớn. đối tượng, phạm vi khai thác vốn của ngân hàng cổ phần đã mở rộng, hướng tới các tầng
lớp dân cư, thanh toán bằng séc phát triển mạnh, thúc đẩy ra đời Công ước Giơnevơ về séc
quốc tế 1931 và Luật séc ở các nước Châu âu, châu Mỹ. Nhưng chiến tranh thế giới thứ hai đã
làm gián đoạn xu thế này, mãi tới những năm 70, tức là sau 20 năm chiến tranh, chiến lược
khách hàng ở các nước Tây âu, Mỹ, Nhật Bản đã trở thành cuộc cách mạng về khách hàng
hướng tới quảng đại dân số là tầng lớp trung lưu và hạ lưu. Sự thay đổi chiến lược khách hàng
đã dẫn tới sự gia tăng mạnh mẽ khối lượng giao dịch của ngân hàng nhăm thoả mãn dịch vụ tài
chính gia đình và cá nhân của hàng trăm triệu người, trở thành áp lực thúc đẩy các ngân hàng
đầu tư hiện đại hoá cơ sở hạ tầng và ứng dụng công nghệ mới. Thẻ thanh toán điện tử của ngân
hàng ra đời trong bối cảnh đó, là một thành tựu quan trọng của công nghệ thông tin ứng dụng
trong lĩnh vực ngân hàng.
Cơ sở ra đời của thẻ thanh toán (thẻ nhựa) là các thẻ kim loại, xuất hiện vào những năm
đầu của thế kỷ XX, do một số công ty ở Mỹ như Western Union, General
Petroleum phát hành cung cấp cho khách hàng để mua hàng hoá của chính công ty của mình.
Thẻ ra đời vào năm 1949, có một doanh nhân người Mỹ là Frank Mc Namara tới ăn tối tại một
nhà hàng ở New York. Sau khi đã ăn xong, ông phát hiện ra mình không đem theo tiền mặt để
thanh toán và ông phải gọi điện cho vợ mình nhanh chóng đem theo tiền đến. Trong tình huống
đó, khiến ông đã nghĩ ra một phương tiện chi trả không dùng tiền mặt để có thể sử dụng trong
những trường hợp tương tự. Tấm thẻ thanh toán đầu tiên ra đời mang tên "Dinners Club".
Những người có thẻ này có thể ghi nợ khi ăn ở 27 nhà hàng trong hoặc ven thành phố New
York, với lệ phí hằng năm là 5USD. Đến năm 1951, hơn 1 triệu USD được tính nợ và số lượng
thẻ ngày càng tăng lên, đem đến nguồn lãi lớn cho công ty phát hành thẻ "Dinners Club". Tiếp
theo "Dinners Club", năm 1955 là sự ra đời của hàng loạt thẻ mới như Tripcharge, Goldenkey,
Gourmet Club, Esquire Club. Năm 1958, công ty American Express đã phát hành các thẻ nhựa
như Carte Blanche và American Express, trong đó tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực dịch vụ
du lịch và giải trí, chủ yếu chỉ dành cho giới doanh nhân. Cũng vào cuối những năm 50, một số
ngân hàng Mỹ đã bắt đầu tiến hành cung cấp dịch vụ thẻ tín dụng theo cơ chế tín dụng tuần
hoàn. Ngân hàng Mỹ (Bank of American) là ngân hàng đầu tiên phát hành thành công thẻ Bank
Americard vào những năm 1966. Bank Americard ra đời nhanh chóng được thị trường chấp
nhận. Sau đó Bank Americard (ngày nay là Master Card).
Ngân hàng Barclay của Anh là ngân hàng ở hải ngoại đầu tiên được phép phát hành thẻ
Bank Americard và cũng là ngân hàng đầu tiên tại Anh phát hành thẻ Barclay Card vào những
năm 1966. Hai loại thẻ phổ biến hịên nay ở Anh là Access và Barclay Card. Thẻ Access do
công ty Signet Ltd phát hành để cạnh tranh với Barclay Card, trong đó các cô đông chính là
một số ngân hàng lớn của Anh như British Bank, National Westminster, Lloyds Bank, Midland
Bank, The Royal Bank của Scotland và Clydesdale. Thẻ Barclay Card xuất phát từ Barclays và
thẻ Trustcard của TSB Bank có liên hệ với Barclay Card. Barclay Card và Trustcard là thành
viên của tập đoàn quốc tế VISA. Access là một thành viên của tập đoàn Master Card. Vào cuối
những năm 70, Access hội nhập Master Card, còn Barclay Card hội nhập thẻ VISA.
*Sự phát triển của thẻ:
Tiền tệ được coi là một trong những phát minh quan trọng nhất của con người. Tiền đề
ra đời và được hoàn thiện nhằm vào hai mục tiêu chính là sự tiện lợi và an toàn. Qua nhiều hình
thái phát triển, ngày nay bằng kỹ thuật hiện đại, tiền tệ đã đạt đỉnh cao chất lượng. Đó là tiền
điện tử - một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt tiên tiến và hiện đại. Thẻ thanh toán
là một dạng của loại tiền điện tử không dùng tiền mặt đó. Thẻ thanh toán ra đời không những
nhằm vào hai mục tiêu trên, mà còn thể hiện tính văn minh, hiện đại của thời kỳ hiện đại hoá,
toàn cầu hoá.
Ra đời trên cơ sở sự phát triển của kỹ thuật tin học, thẻ ngân hàng đã trở thành một công
cụ thanh toán thông dụng ở các nước phát triển trên thế giới, một lĩnh vực kinh doanh đem lại
nhiều lợi nhuận cho các công ty và các ngân hàng. Thẻ thanh toán quốc tế là những loại thẻ
được chấp nhận rộng rãi trên phạm vi toàn cầu như thẻ Visa, Master Card, JCB, American
Express (Amex)...Đó là các loại thẻ được sử dụng phổ biến và thay nhau phân chia thị trường
rộng lớn.
- Thẻ Dinners Club: là loại thẻ đầu tiên được phát hành vào năm 1949, tập trung vào
lĩnh vực du lịch và giải trí
- Thẻ American Express (gọi tắt là Amex): ra đời vào năm 1958. Hiện nay, đây là tổ
chức thẻ du lịch và giải trí lớn nhất thế giới. Tổng số thẻ phát hành gấp 5 lần Dinners Club và
gấp 2 lần JCB. Khác biệt với các thẻ khác là ở chỗ Amex tự phát hành thẻ của chính mình và
trực tiếp quản lý chủ thẻ, không cấp giấy phép để trở thành thành viên cho các công ty tài chính
- ngân hàng. Green Amex là thể đầu tiên do tổ chức American Express phát hành vào năm
1958. Thẻ này không có hạn mức tín dụng, chủ thẻ được phép tiêu dùng và có trách nhiệm trả
một lần vào cuối tháng.
Đến năm 1987, Amex cho ra đời loại thẻ tín dụng mới - Amex Optima - có hạn mức tín dụng
tuần hoàn và cạnh tranh với Visa, Master Card.
- Thẻ Visa xuất phát từ thẻ Bank of Americard do Bank of American (ngân hàng Mỹ)
phát hành vào năm 1960. Năm 1977, Bank of Americard trở thành thẻ Visa. Tổ chức thẻ quốc
tế Visa cũng chính thức hình thành và phát triển. Ngày nay, thẻ Visa là loại thẻ có qui mô phát
triển lớn nhất thế giới. Tổ chức thẻ quốc tế Visa không trực tiếp phát hành thẻ mà giao lại cho
các thành viên.
- Thẻ JCB: Năm 1961, ngân hàng Sanwa tại Nhật Bản đã lần đầu tiên cho ra đời thẻ
JCB, là loại thẻ đang cạnh tranh với Amex. Năm 1981, đã bắt đầu phát triển thành tổ chức thẻ
quốc tế. Mục tiêu chủ yếu là hướng vào thị trường giải trí và du lịch. Ngày nay, thẻ JCB được
sử dụng trên 400 000 nơi, tiêu thụ trên 109 quốc gia ngoài Nhật Bản.
- Thẻ Master Card: Trên cơ sở thành công của thẻ Bank Americard, một số tổ chức thẻ
khác ở Mỹ tìm cách cạnh tranh. Năm 1966, 14 ngân hàng thương mại Mỹ liên kết với nhau
(không gồm Bank of American) thành lập hiệp hội thẻ liên ngân hàng gọi tắt là ICA (Interbank
Card Association). Năm 1967, bốn ngân hàng California đổi tên thành Western States
Bankcard Association (WSBA) chính thức phát hành thẻ Master Charge. Năm 1979, Master
Charge đổi tên thành Master Card và tổ chức thẻ quốc tế Master Card được thành lập, trở thành
tổ chức thẻ lớn thứ hai trên thế giới sau tổ chức thẻ Visa. Cho đến nay, số lượng thành viên
tham gia vào hiệp hội Master Card lên đến 29 000 thành viên, mạng lưới rút tiền mặt được triển
khai rộng rãi ở hơn 191 000 chi nhánh ngân hàng trên thế giới.
1.1.2. Khái niệm về thẻ:
Có nhiều khái niệm khác nhau về thẻ. Mỗi khái niệm có một cách diễn đạt khác nhau.
Song nhìn chung khái niệm về thẻ có thể hiểu như sau:
"Thẻ ngân hàng là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt do ngân hành phát
hành cho khách hàng, theo đó người sở hữu thẻ (chủ thẻ) có thể dùng để
thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ tại các cơ sở chấp nhận thanh toán thẻ (cửa hàng, khách sạn,
sân bay...) hay rút tiền tại các ngân hàng đại lý thanh toán thẻ hoặc các máy rút tiền tự động
ATM"
Sự xuất hiện của thẻ được coi là một bước đột phá trong việc hoàn thiện hoạt động thanh
toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Các dịch vụ của thẻ ngân hàng hết sức đa dạng, có
thể là thẻ tín dụng, thẻ thanh toán bình thường hoặc thẻ thanh toán đặc biệt, có thể là thẻ thanh
toán dùng riêng cho một ngân hàng hoặc là thẻ thanh toán dùng trong hệ thống thanh toán liên
ngân hàng trong nội bộ quốc gia, hoặc là thẻ thanh toán quốc tế.
*Thẻ tín dụng:
Thẻ tín dụng là thẻ do ngân hàng phát hành để chủ thẻ sử dụng thanh toán hàng hoá,
dịch vụ hoặc rút tiền mặt trong hạn mức tín dụng được ngân hàng phát hành thẻ chấp nhận
trong hợp đồng ký kết.
Như vậy thẻ tín dụng giúp cho việc mua hàng hoá và các dịch vụ trả tiền sau. Nó là một
dịch vụ thanh toán với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng căn
cứ vào khả năng tài chính, sổ tiền ký quỹ, hoặc tài sản thế chấp. Đây là một dạng tín dụng tuần
hoàn dành cho thanh toán. Mỗi người có thể được cấp một hạn mức tín dụng theo tài khoản thẻ
tín dụng của người đó. Các tài khoản này hoàn toàn tách khỏi tài khoản thông thường của ngân
hàng. Việc hoàn trả nợ của khách hàng có thể được thực hiện một lần hoặc nhiều lần theo một
thời hạn nhất định và theo hạn mức qui định của ngân hàng phát hành thẻ.
*Thẻ thanh toán:Thẻ thanh toán là thẻ do ngân hàng phát hành để chủ thẻ sử dụng thanh
toán hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt trong phạm vi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
chủ thẻ tại ngân hàng phát hành thẻ.
Vậy điều kiện kiên quyết không thể thiếu được đối với mỗi cá nhân, pháp nhân muốn sử
dụng thẻ là phải có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng phát hành thẻ
(đối với chủ thẻ thành toán); hoặc tài khoản thẻ để ngân hàng theo dõi và thanh toán theo phạm
vi hạn mức tín dụng được cấp (đối với chủ thẻ tín dụng).
1.1.3. Phân loại thẻ:
Thẻ rất đa dạng dưới nhiều góc độ
a.Theo chủ thể phát hành thẻ:
- Thẻ do ngân hàng phát hành (Bank Card)
Là loại thẻ do ngân hàng phát hành giúp cho khách hành sử dụng linh động tài khoản
của mình tại ngân hàng, hoặc sử dụng một số tiền do ngân hàng cấp tín dụng.
Thẻ ngân hàng là loại thẻ được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay, nó không chỉ lưu hành
trong một quốc gia mà còn có thể lưu hành trên phạm vi toàn cầu, như Visa, Master Card,
JCB...
- Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành
Đó là thẻ du lịch và giải trí của các tập đoàn kinh doanh lớn phát hành như Dinner Club,
Amex...hay đó cũng có thể là do các công ty xăng dầu, các cửa hiệu lớn, các cơ sở kinh
doanh... phát hành.
b. Theo tính chất thanh toán thẻ:
- Thẻ tín dụng (Credit Card)
Là thẻ ngân hàng (do ngân hàng phát hành) và được sử dụng phổ biến nhất. Ngân hàng
cấp cho từng chủ thẻ một hạn mức tín dụng nhất định và chủ thẻ được chi tiêu trong hạn mức
đã cho mà không phải trả lãi nếu họ hoàn trả hết số tiền đã sử dụng đúng kỳ hạn theo sao kê.
Nếu không thanh toán hết nợ thì chủ thẻ sẽ phải trả lãi cho số tiền còn nợ theo mức lãi suất qui
định tuỳ theo ngân hàng phát hành. Ngoài ra với thẻ tín dụng, chủ thẻ được ứng trước một hạn
mức tiêu dùng mà không phải trả tiền ngay, chỉ thanh toán theo một kỳ hạn nhất định.
- Thẻ ghi nợ (Debit Card)
Là loại thẻ có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi của chủ thẻ. Loại thẻ
này khi mua hàng hoá, dịch vụ, giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ
ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ và đồng thời ghi Có ngay (chuyển ngân ngay) vào tài
khoản của cơ sở chấp nhận thẻ (CSCNT) đó, thông qua các thiết bị điện tử đặt tại CSCNT.
Ngoài ra thẻ ghi nợ còn được sử dụng để rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động ATM. Thẻ ghi nợ
thường không có hạn mức tín dụng (không có giới hạn chỉ định trước), vì nó phụ thuộc vào số
dư thực có trên tài khoản tiền gửi của chủ thẻ tại ngân hàng phát hành thẻ. Khi nào tài khoản
tiền gửi của chủ thẻ có số dư (tài khoản dư có) thì ngân hàng sẽ cấp thẻ ghi nợ cho khách hàng.
Chủ thẻ chỉ chi tiêu trong phạm vi mình có. Trong trường hợp số dư trên tài khoản của chủ thẻ
không đủ thanh toán, ngân hàng sẽ cấp cho chủ thẻ một mức thấu chi (chi vượt quá số tiền hiện
có trên tài khoản), từ đó giúp cho cá nhân, doanh nghiệp được cấp một khoản tín dụng ngắn
hạn mà không cần thủ tục phức tạp.
Thẻ ghi nợ có hai loại cơ bản:
+ Thẻ on-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập
tức vào tài khoản của chủ thẻ
+ Thẻ off-line: là thẻ ghi nợ mà giá trị những giao dịch sẽ được khấu trừ vào tài
khoản của chủ thẻ sau đó vài ngày
- Thẻ rút tiền mặt (Cash Card)
Là loại thẻ được dùng để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động ATM hoặc ở ngân
hàng. Với chức năng chuyên biệt chỉ dùng để rút tiền, chủ thẻ phải ký quỹ tiền giử vào tài
khoản ngân hàng hoặc chủ thẻ được cấp tín dụng thấu chi mới sử dụng được. Số tiền rút ra mỗi
lần sẽ được trừ dần vào số tiền ký quỹ. Thẻ rút tiền mặt có hai loại:
+ Loại 1: Chỉ để rút tiền tại máy rút tiền tự động của ngân hàng phát hành
+ Loại 2: Không chỉ được dùng để rút tiền ở ngân hàng phát hành mà còn được
sử dụng để rút tiền ở các ngân hàng cùng tham gia tổ hợp thanh toán với ngân hàng phát
hành thẻ
c. Theo công nghệ sản xuất:
Thẻ có ba loại: Thẻ khắc chữ nổi, thẻ từ và thẻ thông minh
- Thẻ khắc chữ nổi (Embossing Card): là loại thẻ được làm dựa trên kỹ thuật khắc chữ
nổi. Trên bề mặt thẻ được khắc nổi các thông tin cần thiết. Những tấm thẻ đầu tiên ra đời đã
được sản xuất theo công nghệ này. ở thời kỳ sơ khai, kỹ thuật sản xuất quá thô sơ, thẻ dễ bị lợi
dụng, làm giả, không đảm bảo an toàn trong khi sử dụng. Do đó hiện nay thẻ này không được
sử dụng.
- Thẻ từ: Để đảm bảo tính an toàn của thẻ, ngân hàng phát hành thẻ có thể sử dụng các
thiết bị có thể mang tính công nghệ cao. Đây là loại thẻ đang được sử dụng phổ biến hiện nay
(phổ biến trong vòng 20 năm nay). Thẻ được sản xuất trên kỹ thuật thư tín. Mặt sau có một dải
băng từ màu nâu sẫm, có chứa các thông tin về chủ thẻ và các thông tin về ngân hàng phát hành
nhằm kiểm soát được tính hợp lệ của thẻ được mã hoá.
- Thẻ thông minh (Smart Card): Là loại thẻ áp dụng công nghệ thẻ hiện đại và là thế hệ
mới nhất của thẻ thanh toán, được sử dụng ở nhiều nước Châu Âu, đặc biệt là ở Pháp. Thẻ này
dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, nhờ gắn vào thẻ một "chip" điện tử có cấu trúc giống như
một máy tính hoàn hảo. Vi mạch điện tử có khả năng lưu trữ thông tin bảo mật của thẻ và chủ
thẻ. Do đó thẻ chip cho phép xử lý on-line, hay thẻ được sử dụng tại các CSCNT thông qua các
máy chuyên dụng có khả năng đọc thẻ, nhận biết thẻ và số Pin. Thẻ thông minh có nhiều nhóm
với dung lượng nhớ của "chip" điện tử klhác nhau.
Trong trường hợp chủ thẻ sử dụng thẻ ở các CSCNT không được trang bị máy móc
chuyên dụng đọc thẻ thì CSCNT có thể dùng máy thông thường đọc thẻ thông qua băng từ của
thẻ. Do đó, thẻ từ có chip xuất hiện, là sự kết hợp chức năng của hai loại thẻ trên.
Tóm lại, về mặt kỹ thuật, trên thế giới phổ biến hiện nay là hai loại thẻ từ tính và thẻ
thông minh. Là loại thẻ ra đời sớm, thẻ từ tính có số lượng sử dụng nhiều hơn, song nó đã bộc
lộ một số nhược điểm về kỹ thuật. Đó là thông tin ghi trong thẻ không tự mã hoá được, khả
năng bị lợi dụng cao, có thể đọc thẻ dễ dàng bằng thiết bị đọc gắn với máy vi tính, cộng với độ
bảo mật không cao, dễ bị làm giả. Do vậy, trong những năm gần đây, công nghệ thẻ thông
minh ra đời và nhanh chóng được đưa vào ứng dụng. Thẻ thông minh khắc phục được nhược
điểm của thẻ từ, nhưng giá thành để sản xuất thẻ quá đắt, chi phí sử dụng thẻ tốn kém hơn do
việc thanh toán tại các cơ sở chấp nhận thẻ phải thanh toán các máy móc hiện đại chuyên dụng
đọc thẻ. Tuy vậy, thẻ thông minh đang dần dần thay thế thẻ từ và sẽ được sử dụng rộng rãi hơn.
d. Theo phạm vi lãnh thổ:
- Thẻ trong nước: Là thẻ được sử dụng giới hạn trong phạm vi một quốc gia. Đồng tiền
giao dịch phải là đồng bản tệ của nước đó. Thẻ dùng trong nước có hai loại:
+Loại 1: Là loại thẻ do tổ chức tài chính hoặc ngân hàng trong nước phát hành,
chỉ được dùng trong nội bộ tổ chức đó.
+Loại 2: Là loại thẻ thanh toán mang thương hiệu của tổ chức thẻ quốc tế được
phát hành để sử dụng trong nước
Thẻ nội địa cũng có công dụng như các loại thẻ khác nhưng hoạt động đơn giản vì chỉ
do một tổ chức hay ngân hàng điều hành từ việc phát hành đến xử lý trung gian thanh toán.
- Thẻ quốc tế (International Card): Là loại thẻ được chấp nhận trên toàn cầu. Nó không
chỉ được sử dụng tại quốc gia mà nó được phát hành mà còn dùng trên phạm vi quốc tế và sử
dụng các ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thẻ quốc tế được hỗ trợ và quản lý trên toàn thế giới bởi
những tổ chức tài chính lớn như Visa, Mast