Ngày nay, hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu, một nước không
thể phát triển nếu không tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đứng trước tình
hình đó, nền kinh tế Việt Nam đang có cơ hội đầu tư, phát triển. Nhưng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài những cơ hội còn rất nhiều những thách
thức, do quy mô vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh thấp, có nguy cơ bị
phá sản trước các doanh nghiệp lớn và trước các đối thủ nặng ký từ nước
ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đóng một vai trò rất
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hàng năm góp phần lớn vào GDP của
cả nước. Với vai trò rất lớn, nhưng lại đứng trước nhiều khó khăn, em không
khỏi băn khoăn về khả năng tồn tại và phát triển của nó. Đó là lý do em
chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ”
để làm đề án của mình.
75 trang |
Chia sẻ: diunt88 | Lượt xem: 2099 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 1
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu, một nước không
thể phát triển nếu không tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Đứng trước tình
hình đó, nền kinh tế Việt Nam đang có cơ hội đầu tư, phát triển. Nhưng đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngoài những cơ hội còn rất nhiều những thách
thức, do quy mô vừa và nhỏ nên khả năng cạnh tranh thấp, có nguy cơ bị
phá sản trước các doanh nghiệp lớn và trước các đối thủ nặng ký từ nước
ngoài. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại đóng một vai trò rất
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, hàng năm góp phần lớn vào GDP của
cả nước. Với vai trò rất lớn, nhưng lại đứng trước nhiều khó khăn, em không
khỏi băn khoăn về khả năng tồn tại và phát triển của nó. Đó là lý do em
chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ”
để làm đề án của mình.
Để giải quyết đề tài này em xin trình bày những nội dung sau:
- Chương I: Cơ sở lý luận về khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
- Chương II: Thực trạng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở việt nam hiện nay
- Chương III: Giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp
Trong phạm vi của đề án môn học, em xin trình bày một cách ngắn
gọn ý kiến của mình, hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 2
CHƯƠNG I :
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
I. HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI:
1. Sự cần thiết của hội nhập:
1.1. Khái niệm hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào
các tổ chức quốc tế khu vực và toàn cầu, trong đó các thành viên quan hệ
với nhau theo những quy định chung.
1.2. Xu thế thế giới:
Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, sự phát triển của nền kinh
tế thế giới đã chịu sự tác động sâu sắc của một loạt những xu thế mới. Đó là
xu thế phát triển cách mạng khoa học và công nghệ, quốc tế hoá, toàn cầu
hoá đời sống kinh tế thế giới và xu thế chuyển từ đối đầu sang đối thoại giúp
cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Thương mại quốc tế phát
triển mạnh mẽ và ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong việc tăng
trưởng kinh tế thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của thế giới đã
tăng từ 50 tỷ USD trong đầu những năm 50 lên hơn 5500 tỷ USD năm 1999;
tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới tăng bình quân từ 1,2 đến 1,5 lần so với
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư đang trở thành trục đỡ cho sự tăng trưởng
kinh tế của thế giới với tỷ lệ tăng trưởng đầu tư bình quân hàng năm cao hơn
tỷ lệ tăng trưởng của hảng thương mại.
Các công ty xuyên quốc gia ngày càng được nâng cao, ảnh hưởng to
lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thế giới; tầm hoạt động mới của các
công ty xuyên quốc gia đã thúc đẩy quốc tế hóa sản xuất, quốc tế hoá nền
kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng.
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 3
Ngày nay, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế
lớn phản ánh đòi hỏi, bức xúc của các quốc gia, dân tộc vì sự phát triển kinh
tế giữa các nước. Thế giới đang xây dựng nền kinh tế với những chính sách
hợp tác, hội nhập quốc tế sâu rộng, trong đó chú trọng đến hiệu quả và tăng
sức cạnh tranh cho các nền kinh tế.
Khi toàn cầu hoá đang trở thành xu thế khách quan thì yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế ngày càng trở nên cấp bách. Toàn cầu hoá kinh tế là
một xu thế mới của quá trình phát triển kinh tế thị trường, phản ánh trình độ
phát triển cao của nền sản xuất, phân công lao động quốc tế và việc quốc tế
hoá sản xuất trở nên phổ biến. Đặc điểm quan trọng của toàn cầu hoá là nền
kinh tế thế giới tồn tại và phát triển như một chỉnh thể, trong đó nền kinh tế
của các quốc gia chỉ là các bộ phận có quan hệ tương tác lẫn nhau, phát triển
với nhiều hình thức phong phú. Bất kỳ một quốc gia nào khi tham gia vào
kinh tế quốc tế đều có thể thu được lợi ích nếu quốc gia đó biết tập trung vào
sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm thể hiện mối tương quan thuận lợi
hơn về mặt chi phí so với các quốc gia khác. Do vậy, chỉ những quốc gia
nào bắt kịp xu thế này, biết tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức mới có thể
đứng vững và phát triển. Quốc gia nào không thực hiện hội nhập tức là đã tự
loại mình ra khỏi lề của sự phát triển. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc
tế đã trở thành một tất yếu khách quan.
1.3. Tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế đã được kiểm
nghiệm qua thực tế, thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Thực tế cho thấy nền kinh tế Việt Nam trước đây yếu kém, chậm
phát triển. Sau đó tư tưởng đươc khai thông, Nhà nước đã đề ra nhiều chính
sách kinh tế mới phù hợp với tiến trình lịch sử, đã góp phần lớn vào sự phát
triển kinh tế của đất nước. Bắt đầu từ Đại hội Đảng VI năm 1986, Đảng và
Nhà nước chủ chương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN, cho phép tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Từ đó đến nay nền kinh
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 4
tế Việt Nam ngày càng năng động hơn. Nhiều đơn vị kinh doanh có hiệu
quả, nhiều ngành nghề đạt và vượt mức kế hoạch đặt ra. Lĩnh vực có thành
tích ấn tượng nhất là ngoại thương, với kim ngạch xuất khẩu tăng 10% năm
2002 gần gấp đôi năm 2001. Đã có 20 mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch
xuất khẩu trên100 triệu USD/ năm. Năm 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng
may mặc sang thị trường Mỹ đạt 900 triệu USD, xuất khẩu thuỷ sản đạt 2,
03 tỷ USD. Hội nhập đã làm tăng sự năng động trong bản thân người sản
xuất, do đó, trong lĩnh vực nông nghiệp cũng có nhiều triển vọng, nhiều lĩnh
vực mới được chú trọng đầu tư như nuôi thuỷ sản, năng suất lúa liên tục
tăng.
Nước ta ngày càng mở rộng quan hệ quốc tế, điều đó là hết sức cần
thiết và phù hợp với tiến trình phát triển của lịch sử, giúp chúng ta hạn chế
đước những yếy kém như đã kể trên. Như vậy, có thể nói nền kinh tế nước
ta phát triển vượt bậc gắn liền với quá trình hội nhập quốc tế.
2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam ra nhập thị trường thế giới:
Với một nước có nền kinh tế thấp kém như Việt Nam thì hội nhập
quốc tế đem lại rất nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức.
2.1. Cơ hội:
Thứ nhất, với quan điểm và nguyên tắc rõ ràng, Việt Nam đẩy
nhanh quá trình hội nhập. Đường lối ở tầm vĩ mô không thể tránh khỏi đối
với sự phát triển của quá trình tham gia toàn cầu hoá thực tế có ý nghĩa rất
lớn đối với sự nghiệp đổi mới, hội nhập của Việt Nam. Từ nhận thức này
trong những năm qua Việt Nam đã có bước chuyển đổi lớn trong chính sách
phát triển kinh tế đối ngoại. Các chính sách này đều theo hướng tự do hoá,
tất nhiên ở các tầng lớp khác nhau phụ thuộc vào thực lực của mỗi lĩnh vực.
Thứ hai, tham gia toàn cầu hóa chính là tranh thủ các điều kiện
quốc tế để tranh thủ tiềm năng nước nhà, phục vụ cho việc nâng cao đời
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 5
sống nhân dân. Việt nam là nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú
nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú không chỉ tạo ta điều kiện cho việc phát triển các ngành khai thác
chế biến mà còn thu hút đầu tư của các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các
nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn, Việt nam có thể xác lập cơ cấu ngành
kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu trị
trường thế giới.
Thứ ba: Trong điều kiện nền kinh tế thế giới đang quá độ sang nền
kinh tế trí tuệ, khoa học và công nghệ phát triển mạnh trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, chi phối mọi lĩnh vực kinh tế xã hội nhưng cũng không
thể thay thế vai trò của nguồn lực lao động. Hơn nữa, bản thân nguồn lực lao
động còn là nhân tố sáng tạo ra công nghệ thiết bị mới và sử dụng chúng
trong quá trình phát triển kinh tế.
Trên thực tiễn nhièu công ty nước ngoài vào Việt Nam, một trong
những lý do quan trọng là tận dụng nguồn lực lao động dồi dào, rẻ và có khả
năng tiếp thu công nghệ mới của Việt Nam. Theo đánh giá của các công ty
Nhật Bản khi phân tích lợi thế môi trường kinh doanh của các quốc gia
ASEAN, Việt Nam đứng thứ 7 trong tổng số các quốc gia (10 quốc gia) lớn
hơn Lào, Campuchia và Myanma1.
Hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo ra cơ hội để nguồn lực của nước ta
khai thông giao lưu với thế giơí bên ngoài. Việt Nam đã xuất khẩu lao động
qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu và nhập khẩu lao động
kỹ thuật công nghệ mới rất cần thiết. Như vậy với lợi thế nhất định về nguồn
lao động cho phép lựa chọn dạng hình phù hợp tham gia vào hội nhập và
qúa trình hội nhập đã tạo điều kiện để nâng cao chất lượng nguồn lao động
Việt Nam.
1 Nguồn:Thời báo kinh tế, năm 2001
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 6
Thứ tư: Việt Nam đẩy nhanh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
trong điều kiện đất nước hoà bình, chính trị-xã hội ổn định. Đây là cơ hội rất
quan trọng để tập trung phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại.
Với sự đổi mới phát triển hơn 17 năm qua Việt Nam đã thu được kết
quả rất đáng tự hào. Sau gần hai thập kỷ tăng trưởng GDP đã tăng lên gấp 2
lần, từ nước nhập khẩu lương thực trở thành nước có mức xuất khẩu gạo
lớn. Năm 2002 xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt 3,5 triệu tấn, năm 2001-3,55
triệu tấn, năm 2002-3,25 triệu tấn, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo
đứng thứ 2 trên thế giới2.
Cùng với mức đó, đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của nhân
dân được cải thiện. Thành qủa này tạo ra niềm tin vững chắc của toàn dân
vào sự nghiệp đổi mới.
Thứ năm: mặc dù kinh tế Việt Nam chưa phát triển nhưng không
phải hội nhập với hai bàn tay trắng, ngoài tài nguyên thiên nhiên nguồn lực
cùng với sự ổn đinh về chính trị xã hội, Việt Nam cũng có kinh nghiệm nhất
định sau hơn 17 năm đổi mới, hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Cơ hội chỉ phát huy tác dụng khi chúng ta biết nắm bắt lấy nó. Nhận
thức một cách đúng đắn và đầy đủ các cơ hội để khai thác triệt để sẽ giúp
cho nền kinh tế Việt Nam phát triển. Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển
hơn bên cạnh các thuận lợi chung cho mọi thành phần kinh tế.
2.2 Thách thức:
Bên cạnh những thuận lợi kể trên nền kinh tế Việt Nam còn nhiều
thách thức trong đó đặc biệt là năm thách thức sau đây:
Thứ nhất, tiềm lực vật chất của Việt Nam còn yếu, nguồn nhân lực
dồi dào nhưng nói chung là có kỹ năng không cao, điều này khiến cho hệ
thống phân công lao động quốc tế gặp nhiều bất cập. Khó khăn này thể hiện ở
2 Nguồn: Số liệu của tổng cục thống kê năm 2002
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 7
chỗ năng lực tiếp cận khoa học công nghệ chủ yếu, khó phát huy lợi thế của
nước đi sau trong việc tiếp cận các nguồn lực sẵn có từ bên ngoài để nâng cao
cơ sở hạ tầng kỹ thuật dẫn đến nguy cơ Việt Nam có thể trở thành “bãi rác”
của các công nghệ lạc hậu. Với quy mô vốn nhỏ như các doanh nghiệp vừa và
nhỏ (DNVVN) thì khả năng nhập các công nghệ lạc hậu càng lớn.
Thứ hai, sự cạnh tranh, đặc biệt là cả các sản phẩm công nghiệp
còn quá thấp do đó việt nam gặp nhiều khó khăn trong việc củng cố và phát
triển các thị trường mới trong điều kiện nhiều nước đang phát triển cùng chọ
chiến lược tăng cường hướng về xuất khẩu nên việt nam sẽ bị áp lực cạnh
tranh ngay tại thị trường nội địa; việc mở rộng thị trường nội địa theo
AFTA, WTO có thể biến việt nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm nước
ngoài. Hàng hoá nước ngoài chất lượng cao lại được cắt giảm thuế, điều này
khiến cho hàng hoá của các DNVVN bị cạnh tranh gay gắt.
Thứ ba, do tri thức và trình độ kinh doanh của các goanh nghiệp
còn thấp, cộng với hệ thống tài chính và ngân hàng còn yếu kém nên dễ nị
tổn thương và bị thao túng nếu tự do hoá thị trường vốn sớm; từ kinh
nghiệm của các nước ngoài và quốc tế ngày càng tăng.
Thứ tư, hệ thống thông tin viến thông toàn cầu hoá với tư cách là
một thứ quyền lực siêu hàng đang phát triển nhanh có thể gây ra tác động
tiêu cức trực tiếp đến an ninh kinh tế, văn hoá, xã hội theo hướng gây rối
loạn và làm lợi cho các thế lực bên ngoài. Vấn đề là kiểm soát việc tự do
hoá thông tin, truyền thông như thế nào để không từ bỏ lợi ích tận dụng khai
thác nó mà vẫn hạn chế tối đa nguy cơ gây thiệt hại sảy ra.
Thư năm, trong quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ yếu là với các quốc
gia có tiềm lực mạnh có thể chứa đựng những yếu tố tiêu cực như muốn kìm
hãm thậm chí gây sức ép buộc Việt Nam phải thay đổi định hướng, mục
đích phát triển.
II. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ:
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 8
1. Khái niệm:
Không có một khái niệm chung nào thống nhất trên thị trường quốc
tế về những gì cấu thành nên một doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Các
khái niệm và sự phân loại thay đổi từ nước này sang nước khác. Quy mô của
doanh nghiệp thường được xác định bởi nhiều chỉ tiêu bao gồm quy mô của
tài sản, số người lao động, cơ cấu sở hữu, nguồn và loại hình tài chợ, lĩnh
vực doanh nghiệp hoạt động. Đối với Việt Nam theo nghị định số
90/2001/ND- CP ngày 23/11/2001 thì DNVVN được định nghĩa như sau:
DNVVN là cơ sở sản xuất, kinh doanh theo pháp luật hiện hành có vốn đăng
ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình không quá 300 người.
Đối với một số lĩnh vực có quy định cụ thể như sau:
Bảng 1: Tiêu thức vốn và lao động.
Quy mô doanh nghiệp Vốn tối đa (đồng) Số người lao động tối đa
Lĩnh vực sản xuất công
nghiệp và xây dựng
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ
1 tỷ
500
100
Lĩnh vực sản xuất nông
lâm nghiệp và hải sản
Trong đó DN nhỏ:
10 tỷ
1 tỷ
1000
200
Lĩnh vực thương mại và
dịch vụ
Trong đó DN nhỏ:
5 tỷ
500 triệu
250
50
Nguồn: Những nội dung cơ bản về quản trị DNVVN, tháng
1/2002.
Theo cách chung nhất, phân loại doanh nghiệp phụ thuộc vào số
người lao động hoặc số vốn kinh doanh. Tuy nhiên còn cách phân loại khác
được sử dụng trong các tài liệu phát triển đó là theo lĩnh vực chính quy và
phi chính quy. Theo hướng này thì “phi chính quy” ám chỉ các doanh nghiệp
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 9
nhỏ, một thành viên, thường làm việc bán thời gian hay theo thời vụ mà
thông thường chúng không có tài sản cố định và có thể hoạt động tại gia
đình. Thêm vào đó các doanh nghiệp thường hoạt động dưới dạng không
đăng ký chính thức và ngoài vòng kiểm soát của Chính phủ về mặt thuế và
quản lý. Thuật ngữ doanh nghiệp nhỏ thường được sử dụng để nói đến thu
nhập nhỏ phát sinh từ các hoạt động thuộc loại này. Khu vực doanh nghiệp
“chính quy” thường được sử dụng để kể đến các loại hình và quy mô doanh
nghiệp sử dụng một số lượng lao động lớn hơn, không điều hành hoạt động
từ gia đình. Loại doanh nghiệp này phải chịu chi phối bởi pháp luật và có
khả năng tiếp cận dễ dàng đến các thể chế tài chính và dự án phát triển. Khái
niệm thường được sử dụng cho doanh nghiệp chính quy là: “DNVVN là đơn
vị tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân nhằm thực hiện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, cung ứng, trao đổi hàng hoá và dịch vụ trên thị trường
để tối đa hoá lợi ích của người tiêu dùng, thông qua đó để tối đa hóa lợi
nhuận của chủ sở hữu tài sản của doanh nghiệp”3.
2. Đặc trưng cơ bản của DNVVN:
- Hình thức sở hữu: Có đủ các hình thức sở hữu: Nhà nước, tập
thể, tư nhân và hỗn hợp.
- Về hình thức pháp lý: Các DNVVN được hình thành theo Luật
doanh nghiệp và những văn bản dưới luật. Đây là những những công cụ
pháp lý xác định tư cách pháp nhân rất quan trọng để điều chỉnh hành vi của
các doanh nghiệp nói chung trong đó có DNVVN, đồng thời xác định rõ vai
trò của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Lĩnh vực và địa bàn hoạt động: DNVVN chủ yếu phát triển ở
ngành dịch vụ, thương mại (buôn bán). Lĩnh vực sản xuất chế biến và giao
thông còn ít (tập trung ở ba ngành: Xây dựng, công nghiệp, nông lâm
3 PGS.TS.Đồng Xuân Ninh: Những vấn đề quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ, trường ĐH KTQD
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 10
nghiệp, thương mại dịch vụ), địa bàn hoạt động chủ yếu ở các thị trấn, thị tứ
và đô thị.
- Công nghệ và thị trường: Các DNVVN chủ yếu có năng lực tài
chính rất thấp, có công nghệ, thiết bị lạc hậu, chủ yếu sử dụng lao động thủ
công. Sản phẩm của các DNVVN chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, chất
lượng sản phẩm kém; mẫu mã bao bì còn đơn giản, sức cạnh tranh yếu. Tuy
nhiên có một số DNVVN hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông lâm, hải
sản có sản phẩm xuất khẩu với giá trị kinh tế cao.
- Trình độ tổ chức quản lý và tay nghề của người lao động còn thấp
và yếu. Hầu hết các DNVVN hoạt động độc lập, việc liên doanh, liên kết
còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn.
3. Vai trò của DNVVN:
Mặc dù có những yếu kém và bất lợi nhất định nhưng do đặc điểm,
tính chất của chúng nên các DNVVN có vị trí, vai trò và tác động kinh tế xã
hội rất lớn.
Thứ nhất, các DNVVN có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm
đa số về mặt số lượng trong tổng số các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh
và ngày càng gia tăng mạnh. Ở hầu hết các nước, số lượng DNVVN chiếm
khoảng 90% tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các
DNVVN lớn hơn tốc độ ra tăng số lượng các doanh nghiệp lớn. Ở nước ta
hiện nay DNVVN chiếm 65,9% so với tổng số doanh nghiệp Nhà nước và
chiếm 33,6% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…
Thứ hai, các DNVVN có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng
của nền kinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập
quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50%
GDP mỗi nước. Ở Việt Nam, theo đánh giá của viện nghiên cứu và quản lý
trung ương, DNVVN đóng góp 24- 25% GDP của cả nước, 31% giá trị sản
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 11
xuất công nghiệp; chiếm 78% mức bán lẻ của ngành thương nghiệp, 64%
khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá. Trong nhiều ngành sản
xuất và dịch vụ khác các DNVVN cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể.
Thứ ba, tác động kinh tế- xã hội lớn nhất của DNVVN là giải quyết
một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc
làm và thu nhập cho người lao động, thì khu vực này vươn xa hơn hẳn các
khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Ở hầu hết
các nước, DNVVN lại thu hút nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao
động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. Ở Việt Nam, cũng theo đánh
giá của viện nghiên cứu và quản lý trung ương, số lượng lao động của các
DNVVN trong các lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người,
chiếm khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng
22,5% lực lượng lao động của cả nước.
Thứ tư, các DNVVN góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ
chế thị trường. Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo
trong kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo,
hoà nhịp với đòi hỏi uyển chuyển của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, khu vực DNVVN thu hút được khá nhiều vốn trong dân.
Hầu hết các DNVVN dựa vào vốn tự có, vốn huy động ngoài rất ít với 7%
DNVVN có vay không trả lãi và trên 2% vay từ ngân hàng. Do tính chất nhỏ
lẻ, dễ phân tán, đi sâu vào các ngõ ngách, yêu cầu vốn ban đầu không nhiều
cho nên các DNVVN có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các
nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn dỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất
kinh doanh.
Thứ sáu, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển địch cơ cấu kinh tế,
đặc biệt với khu vực nông thôn.Sự phát triển của các DNVVN ở nông thôn
sẽ thu hút người lao động ở nông thôn thiếu hoặc chưa có việc làm vào hoạt
Đề án môn học
SV: Phạm Thị Bích Ngọc Lớp QLKT 42A 12
động sản xuất, kinh doanh, rút dần lực lượng lao động ở nông thôn chuyển
sang làm công nghiệp v