Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy 
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh 
khác. 
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân 
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ 
sở hữu của chúng gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay 
đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền dử dụng vốn cho Ngân hàng, 
để Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập. 
 Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại 
vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích 
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại 
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 68 trang
68 trang | 
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 2294 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của chi nhánh NHNN & PTNN tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn tốt nghiệp: "Giải pháp nhằm 
nâng cao khả năng huy động vốn của chi 
nhánh NHNN & PTNN tỉnh Lạng Sơn" 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 1
 Chương 1 
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VỐN CỦA NGÂN HÀNG 
THƯƠNG MẠI 
1.1.Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM 
1.1.1. Khái niệm vốn của NHTM. 
Vốn của NHTM là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng tạo lập hoặc huy 
động được, dùng để cho vay, đầu tư hoặc thực hiện các dịch vụ kinh doanh 
khác. 
Thực chất, vốn của Ngân hàng là một bộ phận của thu nhập quốc dân 
tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng, người chủ 
sở hữu của chúng gửi vào Ngân hàng với mục đích thanh toán, tiết kiệm hay 
đầu tư. Nói cách khác, họ chuyển nhượng quyền dử dụng vốn cho Ngân hàng, 
để Ngân hàng trả lại cho họ một khoản thu nhập. 
 Như vậy, Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung vốn và phân phối lại 
vốn dưới hình thức tiền tệ, làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, kích 
thích mọi hoạt động kinh tế phát triển. Đồng thời, chính các hoạt động đó lại 
quyết định sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. 
 1.1.2. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh Ngân hàng. 
 1.1.2.1. Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành NHTM 
 Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động sản xuất kinh doanh 
được thì phải có :Công nghệ - Lao động – Tiền vốn trong đó vốn là nhân tố 
quan trọng, nó phản ánh năng lực chủ yếu để quyết định khả năng kinh doanh. 
Riêng đối với NHTM, vốn lại càng là nhân tố không thể thiếu trong hoạt động 
kinh doanh của ngân hàng. Vốn là cơ sở để NHTM tổ chức hoạt độnh kinh 
doanh, ngân hàng không thể thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh nếu không 
có vốn. Như đã biết, đặc trưng của hoạt động ngân hàng:Vốn không chỉ là 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 2
phương tiện kinh doanh chính mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu của 
NHTM. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh loại hàng hóa đặc biệt trên thị 
trường tiền tệ(thị trường vốn ngắn hạn) và thị trường chứng khoán(thị trường 
vốn dài hạn). Những ngân hàng trường vốn là ngân hàng có nhiều thế mạnh 
trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn lớn là lợi thế đầu tiên trong việc chấp hành 
pháp luật trước hết là luật NHTW, luật các TCTD, tạo thế mạnh và thuận lợi 
trong kinh doanh tiền tệ. Chính vì thế, có thể nói vốn là điểm đầu tiên trong 
chu kỳ kinh doanh của ngân hàng, là khâu cốt tử của ngân hàng. Do đó, ngoài 
vốn ban đầu cần thiết, tức là đủ vốn điều lệ theo luật định thì ngân hàng phải 
thường xuyên chăm lo tới việc tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động 
của mình 
Từ đặc trưng kinh doanh của Ngân hàng, vốn vừa là phương tiện kinh 
doanh, vừa là đối tượng kinh doanh. Các NHTM thực hiện kinh doanh loại 
“hàng hoá đặc biệt” – tiền tệ trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn hạn) 
và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Vì vậy, ngoài vốn ban 
đầu khi thành lập theo qui định của pháp luật, các Ngân hàng phải thường 
xuyên tìm mọi biện pháp để tăng trưởng vốn trong quá trình hoạt động kinh 
doanh. 
1.1.2.2. Vốn quyết định khả năng thanh toán và năng lực cạch tranh 
của Ngân hàng: 
Trong nền kinh tế thị trưòng, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô 
hoạt động đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín lớn trên thị trường là điều 
trọng yếu. Uy tín đó phải được thể hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh 
toán, chi trả cho khách hàng của ngân hàng. Chúng ta đã biết, đại bộ phận vốn 
của ngân hàng là vốn tiền gửi và đi vay, do vậy ngân hàng phải trả cho khách 
hàng khi họ có yêu cầu rút tiền. Với một ngân hàng có quy mô vốn nhỏ, khi 
nhu cầu vay vốn trên thị trường là rất lớn, một mặt ngân hàng không đáp ứng 
đủ nhu cầu vay, mặt khác với quy mô nhỏ, ngân hàng nếu cho vay tối đa 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 3
nguồn vốn huy động đuợc, dự trữ ít sẽ dẫn đến mất khả năng thanh toán. 
Trong khi đó, với một ngânh hàng trường vốn, họ thực hiện dự trữ đủ khả 
năng thanh toán đồng thời vẫn thỏa mãn được nhu cầu vay vốn của nền kinh 
tế, do đó sẽ tạo được uy tín ngày càng cao. 
Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của 
ngân hàng càng lớn. Vì vậy nếu loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh 
toán của ngân hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với vốn 
khả dụng của ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể 
hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt 
động cạnh tranh có hiệu quả nhằm giữ chữ tín, vừa nâng cao vị thế của ngân 
hàng. 
1.1.2.3. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động 
kinh doanh khác của Ngân hàng: 
Vốn của Ngân hàng quyết định việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng 
tín dụng. Thông thường, các Ngân hàng nhỏ phạm vi hoạt động kinh doanh, 
khoản mục đầu tư, khối lượng cho vay ít và kém đa dạng hơn. Do đó, ảnh 
hưởng đến khả năng thu hút vốn của các tổ chức kinh tế và tầng lớp dân cư, 
thậm chí không đáp ứng được nhu cầu vốn vay của doanh nhiệp. Họ sẽ mất 
khách hàng và không tận dụng được cơ hội kinh doanh. Nếu là Ngân hàng 
lớn, nguồn vốn dồi dào chắc chắn họ sẽ đáp ứng được nhu cầu về vốn, có điều 
kiện để mở rộng quan hệ tín dụng với nhiều doanh nghiệp và thị trường tín 
dụng. 
Nguồn vốn lớn còn giúp Ngân hàng hoạt động kinh doanh với nhiều 
loại hình khác nhau như: Liên doanh liên kết, dịch vụ thuê mua tài chính, kinh 
doanh chứng khoán… các hình thức kinh doanh này nhằm phân tán rủi ro và 
tạo thêm vốn cho Ngân hàng. đồng thời, nâng cao uy tín và tăng sức cạnh 
tranh trên thị trường. Vì vậy, vốn có vai trò quyết định trong hoạt động kinh 
doanh của Ngân hàng. 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 4
1.1.2.4 Nguồn vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng 
Thực tế đã chứng minh: quy mô, trình độ nghiệp vụ, phương tiện kỹ 
thuật của ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Đồng thời, khả 
năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân hàng trong việc mở rộng 
quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả về quy mô, khối lượng tín 
dụng, chủ động về thời gian, thời hạn cho vay, thậm chí quyết định mức lãi 
suất vừa phải cho khách hàng. Điều đó sẽ thu hút ngày càng nhiều khách 
hàng, doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên nhanh chóng và ngân 
hàng sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Đây cũng là điều kiện để bổ 
xung thêm vốn tự có của ngân hàng, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật và 
quy mô hoạt động của ngân hàng trên mọi lĩnh vực. 
Đồng thời vốn của ngân hàng lớn sẽ tạo ra thuận lợi cho việc sử dụng 
tổng hòa các nguồn vốn khác. Trên cơ sở đó sẽ giúp ngân hàng có đủ khả 
năng tài chính để kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là 
cho vay mà còn mở rộng các hình thức liên doanh liên kết, kinh doanh dịch 
vụ thuê mua (leasing), mua bán nợ (phactoring), kinh doanh trên thị trường 
chứng khoán. Chính các hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân 
tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm vốn cho ngân hàng đồng 
thời tăng sức cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. 
Ngoài ra vốn của ngân hàng dồi dào sẽ tạo điều kiện cho NHNN đảm 
bảo khả năng thực thi chính sách tiền tệ, góp phần ổn định lưu thông tiền tệ, 
đảm bảo cân đối tiền – hàng trong nền kinh tế. 
Xuất phát từ vai trò của nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh của 
ngân hàng và của nền kinh tế nên nguồn vốn nói chung và vốn huy động nói 
riêng phải thường xuyên được bảo toàn và không ngừng mở rộng quy mô, 
nâng cao hiệu quả của vốn là tiền đề quan trọng quyết định sự tồn tại và phát 
triển của hoạt động kinh doanh ngân hàng, đáp ứng vốn cho nền kinh tế. Vì 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 5
vậy, nâng cao hiệu quả huy động vốn là sự cần thiết trong quá trình hoạt động 
của NHTM ở tất cả các quốc gia. 
1.1.3. Nội dung và tính chất của các loại vốn trong NHTM 
1.1.3.1. Vốn tự có: 
Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do ngân hàng tạo lập được 
thuộc về sở hữu của ngân hàng. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu 
dài để hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Vốn này chiếm tỷ 
lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng song lại là điều kiện pháp lý bắt 
buộc khi thành lập một ngân hàng. 
Do tính chất ổn định của nó, Ngân hàng có thể sử dụng vào các mục 
đích khác nhau như trang bị cơ sở vật chất, mua tài sản cố định, dùng để đầu 
tư hay góp vốn liên doanh… vốn tự có là căn cứ quyết định khả năng thanh 
toán khi Ngân hàng gặp rủi ro. Sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định 
năng lực và sự phát triển của NHTM. Vốn tự có của Ngân hàng được hình 
thành căn cứ vào hình thức tổ chức của NHTM là: NHTM quốc doanh, 
NHTM cổ phần hay NHTM liên doanh… 
Vốn tự có gồm các thành phần: vốn tự có cơ bản, vốn tự có bổ sung. 
+ Vốn tự có cơ bản: Là vốn điều lệ – vốn pháp định 
 Vốn điều lệ: do các cổ đông đóng góp và được ghi vào điều lệ hoạt 
động của Ngân hàng, theo quy định tối thiểu phải bằng vốn pháp định. 
 Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập ngân 
hàng do pháp luật quy định. 
+ Vốn tự có bổ sung trong quá trình hoạt động của ngân hàng gia tăng 
vốn của chủ theo nhiều phưong thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể 
và các quỹ như: Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt và quỹ 
khác. 
Nguồn nội bộ (nguồn từ lợi nhuận): Trong điều kiện thu nhập ròng lớn 
hơn không, chủ ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn bằng cách chuyển một 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 6
phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc vào cân nhắc 
của chủ ngân hàng về tích lũy từ lợi nhuận và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu 
năm có thu nhập ròng lớn, nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao hơn với vốn 
của chủ hình thành ban đầu. 
Nguồn bên ngoài: Là nguồn bổ xung từ phát hành thêm cổ phiếu để mở 
rộng quy mô hoạt động hoặc để đổim mới trang thiết bị hay để đáp ứng yêu 
cầu vốn của chủ do ngân hàng nhà nước quy định. 
• Nếu phát hành cổ phiếu thường phải chia sẻ quyền lực và lợi nhuận 
• Nếu phát hành cổ phiếu ưu đãi thì không chia sẻ quyền lực và lợi 
tức là cố định 
• Nếu phát hành trái phiếu chuyển đổi thì không mất quyền sở hữu 
và lợi nhuận có thể chuyển đổi ra tiền tiết kiệm nhưng trái phiếu vẫn là một 
khoản nợ và ngân hàng phải để một khoản quỹ để trả nợ. 
Đặc điểm của hình thức huy động này là không thuờng xuyên song 
giúp ngân hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết. 
Các quỹ: 
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Là quỹ được dùng với mục đích 
tăng cường vốn tự có ban đầu. Lợi nhuận hàng năm bổ sung vào quỹ này cho 
đến khi đạt 50% vốn tự có thì sẽ chuyển thành vốn tự có. 
 Quỹ dự trữ đặc biệt: Là quỹ dùng để dự phòng bù đắp rủi ro trong 
quá trình kinh doanh nhằm bảo toàn vốn. 
 Các quỹ khác: Gồm có lợi nhuận chưa phân phối, quỹ phúc lợi, quỹ 
khen thưởng, quỹ khấu hao tài sản cố định. 
Các quỹ trên thuộc sở hữu của ngân hàng. Nguồn hình thành là từ thu 
nhập của ngân hàng thương mại mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ 
phần có thể được coi là một bộ phận vốn sở hữu của ngân hàng (vốn bổ xung) 
do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà 
cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 7
1.1.3.2. Vốn huy động: 
Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ 
các tổ chức kinh tế và cá nhân trong xã hội, thông qua việc thực hiện các 
nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng làm 
vốn để kinh doanh. 
Nguồn vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau, Ngân 
hàng chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu và có trách nhiệm 
hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và lãi khi đến hạn hoặc khi họ có nhu cầu 
rút.Vốn huy động đóng vai trò rất quan trọng đối với mọi hoạt động kinh 
doanh của NHTM. 
Nguồn vốn huy động không ngừng tăng lên, tỷ lệ thuận với mọi thành 
phần kinh tế trong xã hội. Do đó, các NHTM luôn quan tâm khai thác để mở 
rộng tín dụng. Nhưng nguồn vốn này chỉ được sử dụng một phần để kinh 
doanh, còn phải dự trữ một tỷ lệ hợp lí để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn 
huy động gồm có: Vốn tiền gửi và phát hành những giấy tờ có giá. 
Vốn tiền gửi: 
+ Tiền gửi không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào 
ngân hàng nhưng có thể rút ra bất cứ lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn 
yêu cầu này (gửi tiền để sử dụng séc, sử dụng thẻ rút tiền hoặc để thực hiện 
dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ LC hay dịch vụ nhờ thu). 
Tiền gửi không kỳ hạn có lãi suất thấp hoặc không được trả lãi, gồm 
tiền gửi thanh toán và tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý. 
 Tiền gửi thanh toán (tiền gửi giao dịch): Đây là tiền của doanh 
nghiệp hoặc cá nhân để nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Ngân hàng thực 
hiện các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân trong phạm vi số dư cho 
phép. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được nhập 
vào tiền gửi thanh toán theo yêu cầu, với loại tiền gửi này lãi suất là rất nhỏ 
(huặc bằng 0) 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 8
Tiền gửi không kỳ hạn chỉ không ổn định với cá nhân còn đối với 
doanh nghiệp rất ổn định. 
 Tài khoản tiền gửi thanh toán: Là tài khoản mà việc rút và nộp tiền 
được thực hiện bằng séc hoặc chuyển khoản. 
 Tài khoản vãng lai: Là tài khoản lúc dư nợ, lúc dư có. 
Tuy nhiên, ở Ngân hàng luôn có sự chênh lệch giữa xuất và nhập trên 
mỗi tài khoản tiền gửi thanh toán, thường nhập lớn hơn xuất. Từ đó, tạo nên 
một khoản tiền tạm thời nhàn rỗi và Ngân hàng có thể sử dụng một phần để 
kinh doanh. 
 Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục 
đích an toàn tài sản, không phải để thanh toán, khi cần khách hàng có thể rút 
ra để chi tiêu và Ngân hàng phải thoả mãn yêu cầu của họ. Ngân hàng có thể 
sử dụng phần dư thừa nếu đảm bảo được khả năng chi trả. 
+ Tiền gửi có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận giữa khách 
hàng và Ngân hàng về thời gian rút tiền. Về nguyên tắc khách hàng không 
được rút tiền trước thời hạn. Tiền gửi có kỳ hạn giữ vị trí trung gian giữa tiền 
gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm.Đây là nguồn tiền tương đối ổn định, 
Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy 
các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền gửi này bằng cách áp dụng 
nhiều kỳ hạn với mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của khách 
hàng. Các khoản tiền gửi có kỳ hạn không được dùng để thanh toán, thường 
có lãi xuất cao và thời hạn dài hơn. 
+ Tiền gửi tiết kiệm: Là một phần thu nhập của người lao động chưa sử 
dụng đến, tạm thời nhàn rỗi. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích lũy tiền 
một cách an toàn và hưởng lãi. Tiền gửi tiết kiệm có hai loại: tiết kiệm không 
kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn. 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 9
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền có thể rút ra bất kỳ 
lúc nào nhưng không được dùng các phương tiện thanh toán để chi trả cho 
khách hàng. 
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận của 
khách hàng và Ngân hàng về thời hạn gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn 
tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn. 
 Tiền gửi của các ngân hàng khác là nguồn tiền của các ngân hàng 
thường mài gửi vào nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ hay một số mục đích 
khác. 
Đây là nguồn vốn chính để ngân hàng kinh doanh tiền tệ, nó là một 
trong những nguồn vốn ổn định nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên 
tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp chủ yếu là ngắn hạn vì doanh nghiệp 
hoạt động có chu kỳ, khi nào tạm thời thừa vốn thì mới gửi ngân hàng. Mặt 
khác: 
Lãi suất huy động nhỏ hơn lãi suất vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình 
quân của nền kinh tế. 
Nếu lãi suất cho vay lớn hơn lãi suất huy động: Ngân hàng có lãi 
Nếu tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế <lãi suất cho vay 
< lãi suất huy động thì mọi người gửi hết tiền vào ngân hàng và không kinh 
doanh nữa như vậy ngân hàng không cho ai vay được điều này không thể xảy 
ra do đó không bao giờ gửi vốn vào ngân hàng trung dài hạn vì mục đích họ 
hướng tới là tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế. 
 Phát hành giấy tờ có giá: 
Bên cạch các phương thức trên, các NHTM còn phát hành chứng chỉ 
tiền gửi, trái phiếu và kỳ phiếu. Thực chất là việc huy động vốn bằng việc 
phát hành các giấy tờ có giá. 
+ Kỳ phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có kỳ hạn nhỏ 
hơn 12 tháng 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 10
• Đặc trưng của nó là quản lý được chính sách lãi suất trong ngắn hạn 
• Tính lỏng cao 
• Ngân hàng phát hành chủ động hơn về mặt quy mô hoạt động (chỉ 
thông qua tổng giám đốc) 
+ Trái phiếu ngân hàng là giấy nhận nợ của ngân hàng có thời hạn lớn 
hơn 12 tháng 
• Đặc trưng: Quản lý được chính cách lãi suất trong dài hạn 
• Tính lỏng cao, có thể mua bán được trên thị trường chứng khoán 
• Phát hành thông qua thống đốc ngân hàng 
+ Chứng chỉ tiền gửi 
Các giấy tờ có giá được Ngân hàng phát hành từng đợt, tuỳ theo mục 
đích với sự chấp thuận của NHNN, hình thức huy động vốn này các NHTM 
phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi thông thường. 
Qua trình bày trên, vốn huy động là nguồn vốn giữ vị trí quan trọng và 
chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của các NHTM, chiếm tỷ trọng lớn nhất 
trong tổng nguồn vốn (khoảng 80%). Các NHTM phải tôn trọng về mức vốn 
huy động theo quy định của pháp luật. 
1.1.3.3. Vốn đi vay 
Vốn đi vay: là khoản tiền vay muợn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả 
khi khả năng huy động vốn bị hạn chế. Đây là nguồn chủ yếu để chống rủi ro 
thanh khoản của các ngân hàng. 
- Vay từ NHTW là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong 
chi trả của NHTM. Hình thức cho vay chủ yếu của NHNN là tái chiết khấu 
(tái cấp vốn). Các thương phiếu đã được các NNTM chiết khấu (tái chiết 
khấu) trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những thương 
phiếu này lên tái chiết khấu tại NHNN. Thông thường NHNN chỉ tái chiết 
khấu cho những thương phiếu có chất lượng như thời gian đáo hạn ngắn, khả 
năng trả nợ cao và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kỳ. 
Đề tài: “Giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn của 
chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Lạng Sơn”. 
Chuyên đề tốt nghiệp 11
Trong điều kiện chưa có thương phiếu NHNN cho NHTM vay dưới hình thức 
tái cấp vốn theo hạn mức tín dụng nhất định. Nguồn vốn này chiếm tỷ trọng 
nhỏ trong ngân hàng, nó chủ yếu là vốn ngắn hạn, chi phí cao hay thấp phụ 
thuộc vào chính sách tiền tệ của NHTW: 
+ Nếu NHTW thắt chặt tiền tệ với lãi suất cao 
+ Nếu mở rộng tiện tệ thì lãi suất thấp 
NHTW cho vay nhằm mục đích để bảo vệ an toàn cho toàn hệ thống 
ngân hàng và thực hiện chính sách tiền tệ.Vay từ NHTM khác là nguồn các 
ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các TCTD khác trên thị trường liên 
ngân hàng. 
 Với các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết quả dư gia 
tăng bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho 
các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. 
Với các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ lại có nhu cầu vay mượn tức 
thời để đảm bảo thanh khoản 
+ Vay qua đêm là hợp đồng vay mượn bất thành văn giữa hai ngân 
hàng chủ yếu thông qua điện thoại và điện tín chỉ có