TTCK có tổ chức hoạt động không phải trực tiếp do những người
muốn mua hay muốn bán chứng khoán thực hiện, mà do những người môi
giới trung gian thực hiện, đó là nguyên tắc trung gian, nguyên tắc căn bản
nhất của TTCK có tổ chức. Từ đó trên TTCK, xuất phát từ nhu cầu gặp gỡ
giữa người mua và bán hình thành nên nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
TTCK hình thành, để đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh có
hiệu quả, yêu cầu các loại chứng khoán giao dịch là những loại chứng
khoán thực, đảm bảo lợi ích cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư. Xuất phát
từ nhu cầu những nhà đầu tư có tiền nhưng không có kinh nghiệm, không
biết đầu tư vào đâu và vào loại chứng khoán nào bởi vì họ không thể dự
đoán được một cách chính xác giá trị trong tương lai của nó. Nếu không có
những người trung gian tư vấn, có trình độ và có sự phân tích cần thiết về
những chứng khoán dựa trên những căn cứ xác đáng để có những nhận xét
kỹ lưỡng, thì người đầu tư có thể bị lầm lẫn hoặc bị lường gạt. Do đó trên
thị trường hình thành nên nghiệp vụ tư vấn đầu tư.
116 trang |
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1655 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển các hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCP chứng khoán Bảo Việt - Trần Văn Sùng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 1 - Trường ĐHKTQDHN
Lời mở đầu
Công nghiệp hoá là bước phát triển tất yếu của mỗi dân tộc mỗi đất
nước phải trải qua. Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
hoá nền kinh tế quốc dân ở nước ta, cần giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề
quan trọng. Trong đó vốn là chìa khoá để thực hiện công nghiệp hoá.
Để công nghiệp hoá với tốc độ nhanh cần có cơ chế chính sách và
biện pháp huy động được nhiều vốn nhất và sử dụng vốn có hiệu quả. Một
trong những biện pháp thực hiện huy động mọi nguồn vốn có thể huy động
được khơi động mọi nguồn vốn trong nước, khuyến khích dân chúng tiết
kiệm và thu hút một nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư, thu hút vốn đầu tư từ
nước ngoài, đó là TTCK.
Đối với chúng ta, đây là vấn đề mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì
vậy để có một TTCK hợp lý, đem lại hiệu quả cao đòi hỏi chúng ta có nhận
thức và quan điểm đúng đắn về vấn đề này.
Nhằm góp phần vào lĩnh vực phát triển của TTCK của Việt Nam.
Em chọn chuyên đề tốt nghiệp với đề tài là: “Giải pháp phát triển các
hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCP chứng khoán Bảo
Việt”.
Bố cục chuyên đề gồm 3 Chương:
Chương I : Những vấn đề chung về hoạt động của CTCK
Chương II : Thực trạng hoạt động của CTCK Bảo Việt
Chương III: Giải pháp nhằm phát triển các hoạt động của
CTCP chứng khoán Bảo Việt
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 2 - Trường ĐHKTQDHN
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình
của Cô giáo - ThS. Lê Hương Lan và các cán bộ phòng Ngiệp vụ I tại
CTCP chứng khoán Bảo Việt đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Chương I
Những vấn đề chung về hoạt động của
Công ty chứng khoán
1.1. KHáI QUáT Về CTCK
1.1.1. Sự hình thành CTCK
TTCK có tổ chức hoạt động không phải trực tiếp do những người
muốn mua hay muốn bán chứng khoán thực hiện, mà do những người môi
giới trung gian thực hiện, đó là nguyên tắc trung gian, nguyên tắc căn bản
nhất của TTCK có tổ chức. Từ đó trên TTCK, xuất phát từ nhu cầu gặp gỡ
giữa người mua và bán hình thành nên nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
TTCK hình thành, để đảm bảo thị trường hoạt động lành mạnh có
hiệu quả, yêu cầu các loại chứng khoán giao dịch là những loại chứng
khoán thực, đảm bảo lợi ích cho cả nhà phát hành và nhà đầu tư. Xuất phát
từ nhu cầu những nhà đầu tư có tiền nhưng không có kinh nghiệm, không
biết đầu tư vào đâu và vào loại chứng khoán nào bởi vì họ không thể dự
đoán được một cách chính xác giá trị trong tương lai của nó. Nếu không có
những người trung gian tư vấn, có trình độ và có sự phân tích cần thiết về
những chứng khoán dựa trên những căn cứ xác đáng để có những nhận xét
kỹ lưỡng, thì người đầu tư có thể bị lầm lẫn hoặc bị lường gạt. Do đó trên
thị trường hình thành nên nghiệp vụ tư vấn đầu tư.
Các Công ty, tổ chức đại diện làm trung gian giúp thị trường hoạt
động lành mạnh và hiệu quả cũng có nhu cầu kinh doanh trên trên thị
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 3 - Trường ĐHKTQDHN
trường để thu lợi nhuận cho chính Công ty thông qua hành vi mua bán
chứng khoán với khách hàng. Từ đó hình thành nên nghiệp vụ tự doanh
trong Công ty.
Xuất phát từ nhu cầu của các tổ chức phát hành, để thực hiện thành
công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi phải cần đến các
Công ty tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện Bảo lãnh, phân phối chứng
khoán ra công chúng. Từ đó hình thành nên nghiệp vụ Bảo lãnh phát hành.
Khi thị trường phát triển, đòi hỏi Công ty đại diện cho khách hàng
hay nói cách khác khách hàng uỷ thác cho Công ty thay mặt mình quyết
định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng
chấp thuận. Từ nhu cầu đó, nghiệp vụ Quản lý danh mục đầu tư hình thành.
Từ những nhu cầu và điều kiện trên đòi hỏi phải có một tổ chức hoặc
một Công ty đại diện thực hiện các nghiệp vụ đó một cách thống nhất, có
tổ chức giúp cho TTCK hoạt động lành mạnh và có hiệu quả. Từ đó CTCK
được hình thành.
Các CTCK ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của TTCK. Ở
các nước có TTCK phát triển CTCK hoạt động rất tấp lập và chính họ là
tác nhân quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của
TTCK nói riêng.
Ngày nay, kể cả các nước đang phát triển, các CTCK ra đời rầm rộ
và phổ biến, chiếm lĩnh phần lớn các giao dịch chứng khoán trên thị
trường. Nhờ các CTCK mà các trái phiếu Chính phủ, cổ phiếu và trái phiếu
của các CTCP được lưu thông, buôn bán với doanh số lớn trên TTCK. Qua
đó một lượng vốn lớn được tập trung vào để đầu tư từ những lượng vốn
nhỏ trong dân chúng, tổ chức đoàn thể hay doanh nghiệp.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 4 - Trường ĐHKTQDHN
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của CTCK
Một CTCK trên thị trường tuỳ thuộc vào quy định của từng nước
hoặc khả năng của Công ty mà có thể kinh doanh trên một lĩnh vực nhất
định hoặc có thể kinh doanh trên tất cả các lĩnh vự. Căn cứ vào các nghiệp
vụ kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh hoặc tuỳ từng nước mà tên các Công
ty này có thể là CTCK hoặc Công ty môi giới chứng khoán hay Công ty
kinh doanh chứng khoán…
Tại Việt Nam theo quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày
13/10/1998 của UBCKNN, CTCK là CTCP, Công ty TNHH thành lập hợp
pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một
số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Công ty Môi giới chứng khoán: là Công ty thực hiện việc trung gian,
mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng .
Công ty Bảo lãnh phát hành chứng khoán : là CTCK có lĩnh vực
hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ Bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh
lệch giá.
Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK thực hiện nghiệp vụ
kinh doanh, nghĩa là tự bỏ vốn và chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
Công ty trái phiếu: là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
CTCK không tập trung: là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị
trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
Tuy có nhiều định nghía khác nhau về CTCK nhưng có thể có một
khái niệm chung về CTCK như sau:
CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các hoạt động
kinh doanh trên TTCK.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 5 - Trường ĐHKTQDHN
Qua khái niệm trên ta có thể thấy đặc điểm của các CTCK như
sau:
CTCK là một định chế tài chính trung gian. Một định chế trung gian
trên Thị trường tài chính là cầu nối giữa người cho vay và người đi vay.
Khi một người cho vay tìm ra được một người muốn vay, người đó gặp
phải khó khăn là chi phí thời giờ và tiền bạc cho những cuộc kiểm tra tín
nhiệm để biết liệu người vay có thể hoàn trả vốn và lãi cho mình không.
Ngoài các chi phí thông tin này, quá trình thực tế cho vay hoặc mua chứng
khoán cần đến các chi phí giao dịch. Các trung gian tài chính này giúp cho
những người đi vay và người cho vay giảm được chi phí và thời gian tìm
kiếm, giao dịch. Vì vậy, không có trung gian tài chính thì Thị trường tài
chính không thể có được lợi ích trọn vẹn. Trên thị trường tài chính nói
chung và TTCK nói riêng có nhiều trung gian tài chính và các CTCK là
một trong các trung gian quan trọng trên TTCK.
CTCK thực hiện các hoạt động kinh doanh như bất cứ một tổ chức
kinh doanh nào khác trong nền kinh tế, thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, đều nhằm mục đích thu lợi nhuận từ các
hoạt động kinh doanh mua, bán chứng khoán.
1.1.3. Phân loại CTCK
1.1.3.1. Theo tính chất sở hữu
Hiện nay có 3 loại hình tổ chức cơ bản của CTCK, đó là Công ty
hợp danh, Công ty TNHH và CTCP.
CTCP
- CTCP là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữu Công ty là các
cổ đông.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 6 - Trường ĐHKTQDHN
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn góp vào doanh nghiệp.
- CTCP có quyền phát hành chứng khoán (cổ phiếu và trái phiếu) ra
công chúng theo quy định pháp luật về chứng khoán hiện hành.
Công ty TNHH
- Thành viên của Công ty chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ
và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Công ty TNHH không được phép phát hành Cổ phiếu.
Công ty hợp danh
- Là loại hình kinh doanh có từ hai chủ sở hữu trở nên.
- Thành viên của Công ty bao gồm: Thành viên góp vốn và thành
viên hợp danh. Các thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng
toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của Công ty. Các thành viên góp
vốn không tham gia điều hành Công ty, họ phải chịu trách nhiệm hữu hạn
trong phần vốn góp của mình với những khoản nợ của Công ty.
- Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ
một loại chứng khoán nào.
Do các ưu điểm của loại hình CTCP và Công ty TNHH so với Công
ty hợp danh, vì vậy hiện nay chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hình
thức Công ty TNHH và CTCP.
1.1.3.2. Theo mô hình kinh doanh
Hoạt động của CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các
doanh nghiệp sản xuất thương mại thông thường vì CTCK là một định chế
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 7 - Trường ĐHKTQDHN
tài chính đặc biệt. Vì vậy, vẫn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của
CTCK cũng có những điểm khác nhau và vận dụng cho các khối thị trường
có mức độ phát triển khác nhau (thị trường cổ điển; thị trường mới nổi; thị
trờng các nước chuyển đổi). Tuy nhiên, có thể khái quát mô hình tổ chức
kinh doanh chứng khoán của CTCK theo 2 nhóm (Mô hình CTCK đa năng
và Mô hình CTCK chuyên doanh).
CTCK chuyên doanh (hay còn gọi là mô hình đơn năng)
Theo mô hình này, CTCK là Công ty chuyên doanh độc lập, các
NHTM và các tổ chức tài chính khác không được phép tham gia vào hoạt
động kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này là hạn chế rủi ro cho hệ thống Ngân hàng
do những ảnh hưởng tiêu cực của TTCK, và các Ngân hàng không được sử
dụng vốn huy động để đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán; Mặt khác, với sự
chuyên môn hoá sẽ tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Điển hình của mô
hình này là các CTCK ở Mỹ, Nhật, Hàn Quốc,… có sự tách bạch giữa hoạt
động Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán.
Tuy nhiên, do xu thế hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ
nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh
vực tiền tệ, chứng khoán, bảo hiểm, nhưng được tổ chức thành Công ty mẹ,
Công ty con và có sự quản lý giám sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc
lập với nhau.
CTCK đa năng
Theo mô hình này, CTCK được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp
dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
tiền tệ và các dịch vụ tài chính. Theo đó, các Công ty hoạt động với tư cách
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 8 - Trường ĐHKTQDHN
là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô
hình này được biểu hiện dưới 2 hình thức sau:
CTCK đa năng một phần: Các Công ty muốn hoạt động trong lĩnh
vực chứng khoán phải thành lập Công ty con-CTCK, hoạt động độc lập.
Mô hình này được áp dụng ở Anh và những nước có quan hệ gần gũi với
Anh như Canada, Úc.
Mô hình này có ưu điểm là các Công ty được kết hợp kinh doanh các
lĩnh vực khác và kinh doanh chứng khoán, do đó tận dụng được thế mạnh
về tài chính, kinh nghiệm, mạng lưới khách hàng rộng khắp của Công ty.
Bên cạnh đó, bởi vì có qui định hoạt động riêng rẽ giữa hai hoạt động trên
cho nên hạn chế được rủi ro nếu có sự biến động của một trong hai thị
trường. Đặc biệt, mô hình này phù hợp với những nước mới thành lập
TTCK, khi mà cần có các tổ chức tài chính lành mạnh tham gia vào thị
trường và khi hệ thống luật, kiểm soát còn nhiều mặt hạn chế.
CTCK đa năng hoàn toàn: Mô hình này không có sự tách bạch nào
giữa hoạt động Ngân hàng và kinh doanh chứng khoán, NHTM không
những được hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ mà còn được hoạt động trong
lĩnh vực chứng khoán và bảo hiểm. Nó được áp dụng ở các nước Bắc Âu,
Hà Lan, Thụy Sĩ, Áo...
Khác với mô hình chuyên doanh, ưu điểm của mô hình này là Công
ty có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó mà giảm bớt rủi ro cho
hoạt động kinh doanh chung và có khả năng về tài chính chịu đựng các
biến động của TTCK. Tuy nhiên, mô hình đa năng hoàn toàn có một số hạn
chế: TTCK phát triển chậm vì hoạt động chủ yếu của hệ thống Ngân hàng
dùng vốn để cấp tín dụng và dịch vụ thanh toán, do đó Ngân hàng thường
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 9 - Trường ĐHKTQDHN
quan tâm đến lĩnh vực Ngân hàng hơn là lĩnh vực chứng khoán. Điều này
đã thể hiện sự kém phát triển của TTCK Châu Âu so với TTCK Mỹ.
Bên cạnh đó, nó còn có nhược điểm là trong trường hợp biến động
của TTCK, hậu quả có thể tác động tiêu cực đến lĩnh vực kinh doanh tiền
tệ nếu không có sự tách biệt giữa hai loại hình kinh doanh này, thực tế đã
chứng minh thông qua cuộc đại khủng hoảng 1929 -1933, hay vụ phá sản
Ngân hàng Barings của Anh năm 1995. Ngược lại, trong trường hợp thị
trường tiền tệ biến động có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh chứng
khoán của các Ngân hàng. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan
là một minh chứng.
1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của CTCK
Do vai trò của CTCK đối với TTCK, vì nó là một loại hình kinh
doanh ảnh hưởng nhiều đến lợi ích công chúng và rất dễ bị lợi dụng nhằm
kiếm lợi riêng, luật pháp các nước đều quy định rất chặt chẽ đối với các
hoạt động của CTCK. có rất nhiều quy định nguyên tắc đối với hoạt động
của CTCK nhưng nhìn chung trên thế giới các CTCK phải tuân thủ một số
nguyên tắc nhất định để bảo vệ cho các nhà đầu tư.
1.1.4.1. Nhóm nguyên tắc đạo đức
- CTCK phải bảo đảm giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích
của khách hàng.
- Kinh doanh có kỹ năng, tận tụy có tinh thần trách nhiệm.
- Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước lệnh của Công ty.
- Có nghĩa vụ bảo mật cho khách hàng, không được tiết lộ các thông
tin về tài khoản khách hàng khi chưa được khách đồng ý bằng văn bản trừ
khi có yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 10 - Trường ĐHKTQDHN
- CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tư vấn phải cung cấp thông tin đầy
đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng phải
gánh chịu, đồng thời họ không được khẳng định về lợi nhuận các khoản
đầu tư mà họ tư vấn.
- CTCK không được phép nhận bất cứ khoản thù lao nào ngoài các
khoản thù lao thông thường cho dịch vụ tư vấn của mình.
- Nghiêm cấm thực hiện các giao dịch nội gián, các CTCK không
được phép sử dụng các thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán cho chính
mình, gây thiệt hại đến lợi ích của khách hàng.
- Ở nhiều nước, các CTCK phải đóng góp tiền vào quỹ bảo vệ nhà
đầu tư chứng khoán để báo vệ lợi ích cho khách hàng trong trường hợp
CTCK mất khả năng thanh toán.
Các CTCK không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho
khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của chứng
khoán hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hàng.
1.1.4.2. Nhóm nguyên tắc tài chính.
- Đảm bảo các yêu cầu về vốn, cơ cấu vốn và nguyên tắc hạch toán
báo cáo quy định của UBCKNN. Đảm bảo nguồn tài chính trong cam kết
kinh doanh chứng khoán với khách hàng.
- CTCK không được dùng tiền của khách hàng làm nguồn tài chính
để kinh doanh, ngoại trừ trường hợp đó được dùng phục vụ cho giao dịch
của khách hàng.
- CTCK phải tách bạch tiền và chứng khoán của khách hàng với tài
sản của mình. CTCK không được dùng chứng khoán của khách hàng làm
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 11 - Trường ĐHKTQDHN
vật thế chấp vay vốn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý bằng văn
bản.
1.1.5. vai trò của CTCK
Các CTCK ra đời và phát triển một cách nhanh chóng như vậy là do
chúng đóng một vai trò rất quan trọng trên TTCK. Để hiểu rõ sự cần thiết
của các CTCK trên TTCK chúng ta xem xét vai trò của các CTCK đối với
từng đối tượng, chủ thể khác nhau trên TTCK.
1.1.5.1. Đối với các tổ chức phát hành
Mục tiêu tham gia vào TTCK của các tổ chức phát hành là huy động
vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt
động đại lý phát hành, Bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ
chế huy động vốn phục vụ cho các nhà phát hành.
Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc
trung gian. Nguyên tắc yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành
không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung
gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả người đầu
tư và nhà phát hành. Và khi thực hiện công việc này CTCK đã tạo ra cơ
chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK.
1.1.5.2. Đối với các nhà đầu tư
Thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh
mục đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do
đó nâng cao hiệu quả các khoản đầu tư. Đối với hàng hoá thông thường,
mua bán qua trung gian sẽ làm sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người
bán. Tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến động thường xuyên của giá cả
chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém
chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 12 - Trường ĐHKTQDHN
tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín
nghề nghiệp sẽ giúp cho các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một
cách hiệu quả.
1.1.5.3. Đối với TTCK
Với TTCK, CTCK thể hiện hai vai trò:
Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường:
Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa
ra mức giá cuối cùng, người mua và bán phải thông qua các CTCK vì họ
không được trực tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các CTCK là những
thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị
trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng các nhà
phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng
khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK, các CTCK còn
thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những
khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều
CTCK đã dành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình
ổn thị trường.
Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài
chính:
TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các
tài sản tài chính và các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó, vì
CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp một, do
thực hiện các nghiệp vụ như Bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các
CTCK không những huy động được nguồn vốn đưa vào sản xuất, kinh
doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản
tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Trần Văn Sùng
Lớp TTCK42B - 13 - Trường ĐHKTQDHN
bán giao dịch trên thị trường cấp hai. Điều này làm giảm rủi ro, tạo nên tâm
lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường cấp hai, do thực hiện giao dịch
mua và bán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành
tiền mặt và ngược lại. Những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh
khoản của những tài sản tài chính.
1.1.5.4. Đối với các cơ quan quản lý thị trường:
Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị TTCK cho các cơ
quan quản lý thị trường để thực hiện mục tiêu đó các CTCK thực hiện
được vai trò này bởi vì họ vừa là người Bảo lãnh phát hành cho các chứng
khoán mới, vừa là trung gian mau bán chứng khoán và thực hiện các giao
dịch trên thị trường, do vậy họ nắm được tình hình tài chính cũng như hoạt
động kinh doanh của các tổ chức phát hành như là các nhà đầu tư trên
TTCK.
Một trong những yê