Sau hơn hai mươi năm năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã gặt hái được khá nhiều
kết quả như tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống tinh thần vật chất người dân được cải
thiện rõ rệt, uy tín của Việt Nam trên thế giới ngày càng được nâng cao. Tuy đã đạt được
thành tựu to lớn đó nhưng quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ bé, sản xuất nhỏ. Vì xuất
phát điểm của chúng ta quá thấp nên muốn để hoà nhập vào nền kinh tế phát triển của thế
giới, chúng ta cần phải đẩy nhanh sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Như vậy, nhu cầu về
vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH sẽ là rất lớn, đặc biệt là Việt Nam đang cần một khối
lượng vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xây dựng các công trình công nghiệp, nền
tảng của tăng trưởng kinh tế dài lâu. Đại hội Đảng IX khẳng định “ Nhà nước có chính
sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh thủ tối đa nguồn lực nước
ngoài; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất , phát huy
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ” . Nội dung này lại khẳng định một lần nữa
nhu cầu to lớn về vốn đối với nền kinh tế, đồng thời chỉ rõ tầm quan trọng của nguồn vốn
trong nước và quốc tế.
Là một trung gian tài chính – đi vay để cho vay Ngân hàng đầu tư và phát triển đã
chủ trương tăng cường hoạt động huy động vốn, trước hết là để thực hiện kinh doanh của
đơn vị mình, sau đó góp phần là một trong những kênh huy động vốn tích cực cho nền
kinh tế
Sau khi được tìm hiểu về vấn đề trên, em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp quản lý
nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương
” làm đề tài viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Thông qua đề tài em mong
muốn được góp phần nào đó, dù rất nhỏ bé vào việc tăng cường hoạt động huy động vốn
của ngaan hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Đề tài này gồm ba chương :
Chương I : Cơ sở lý luận về huy động vốn.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Chương III : Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu
tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
55 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 1763 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng
huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát
triển tỉnh Hải Dương
PHẦN MỞ ĐẦU
Sau hơn hai mươi năm năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã gặt hái được khá nhiều
kết quả như tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống tinh thần vật chất người dân được cải
thiện rõ rệt, uy tín của Việt Nam trên thế giới ngày càng được nâng cao. Tuy đã đạt được
thành tựu to lớn đó nhưng quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ bé, sản xuất nhỏ. Vì xuất
phát điểm của chúng ta quá thấp nên muốn để hoà nhập vào nền kinh tế phát triển của thế
giới, chúng ta cần phải đẩy nhanh sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Như vậy, nhu cầu về
vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH sẽ là rất lớn, đặc biệt là Việt Nam đang cần một khối
lượng vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xây dựng các công trình công nghiệp, nền
tảng của tăng trưởng kinh tế dài lâu. Đại hội Đảng IX khẳng định “ Nhà nước có chính
sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh thủ tối đa nguồn lực nước
ngoài; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất , phát huy
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ” . Nội dung này lại khẳng định một lần nữa
nhu cầu to lớn về vốn đối với nền kinh tế, đồng thời chỉ rõ tầm quan trọng của nguồn vốn
trong nước và quốc tế.
Là một trung gian tài chính – đi vay để cho vay Ngân hàng đầu tư và phát triển đã
chủ trương tăng cường hoạt động huy động vốn, trước hết là để thực hiện kinh doanh của
đơn vị mình, sau đó góp phần là một trong những kênh huy động vốn tích cực cho nền
kinh tế
Sau khi được tìm hiểu về vấn đề trên, em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp quản lý
nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương
” làm đề tài viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Thông qua đề tài em mong
muốn được góp phần nào đó, dù rất nhỏ bé vào việc tăng cường hoạt động huy động vốn
của ngaan hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Đề tài này gồm ba chương :
Chương I : Cơ sở lý luận về huy động vốn.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Chương III : Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu
tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
CHƯƠNG I : CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
I. Nguồn vốn của NHTM
1. Khái niệm
Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tài chính mà NHTM có quyền sử
dụng để tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
2. Phân loại nguồn vốn
2.1 Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu là toàn bộ giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của các chủ ngân hàng. Vốn chủ
sở hữu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng ( 3-4% ) nhưng
nó rất quan trọng vì đó là điều kiện pháp lý bắt buộc để thành lập ngân hàng. Một ngân
hàng phải có một tỷ lệ vốn sở hữu trên tổng nguồn vốn mới được phép tổ chức và hoạt
động, tỷ lệ này phụ thuộc vào mỗi quốc gia. Vốn chủ sở hữu là cở sở ban đầu để các ngân
hàng có được các nguồn vốn khác và thực hiện những hoạt động kinh doanh của mình.
Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu bao gồm :
Vốn ban đầu :
Là nguồn vốn do các chủ sở hữu đóng góp và được ghi trong điều lệ của ngân hàng
và nó không được nhỏ hơn vốn pháp định. Nguồn vốn này được hình thành khác nhau
tuỳ vào hình thức sở hữu của ngân hàng. Nếu ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước thì
vốn ban đầu sẽ do nhà nước cấp. Với các ngân hàng là ngân hàng cổ phần thì vốn ban
đầu sẽ do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phiếu. Còn ngân hàng liên doanh thì
vốn ban đầu sẽ do các bên liên doanh đóng góp. Ngân hàng tư nhân thì sẽ do chủ sỡ hữu
của ngân hàng đó bỏ tiền của mình ra để làm vốn ban đầu.
Vốn bổ sung :
Để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh các ngân hàng sẽ tăng số vốn chủ sở hữu
lên từ các nguồn là :
Vốn từ lợi nhuận :
Nguồn này chỉ trích ra khi lãi ròng của các ngân hàng lớn hơn 0. Và tỉ lệ nguồn vốn
này được trích ra lại tuỳ thuộc vào từng chủ sở hữu ngân hàng, dựa trên cơ sở giữa lọi ích
tiêu dùng và lợi ích tiêu dùng.
Vốn thu từ việc phát hành thêm cổ phiếu và trái phiếu :
Các NHTM sẽ thực hiện việc này khi vốn chủ sở hữu và quy mô hoạt động chưa đảm
bảo, tích tụ lợi nhuận thu được chưa đủ lớn. Nguồn thu nhập này lại phụ thuộc vào quy
định chặt chẽ và sự quản lý của nhà nước về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu, do vậy
nguồn vốn này không thu nhập thường xuyên.
Các quỹ : Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ phúc lợi, quỹ thặng dư,…
2.2 Vốn tiền gửi
Là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các cá nhân trong và các tổ
chức kinh tế trong xã hội thông qua các quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh
toán và các nghiệp vụ kinh doanh khác được dùng làm vốn kinh doanh.
Vốn tiên gửi này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Vì qui
mô của nó lớn hơn rất nhiều so với các nguồn vốn khác, thông thường nó chiếm khoảng
50% tổng nguồn vốn.
Đặc điểm của nguồn vốn này là chúng được thanh toán khi khách yêu cầu ngay kể
cả khi chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh
khoản của ngân hàng. Do sự biến động của nó nên các ngân hàng sẽ không sử dụng hết
nguồn vốn này vào kinh doanh mà phải dự trữ bắt buộc một tỉ lệ hợp lý để đảm bảo cho
việc thanh toán.
Lãi suất, tỷ giá, thu nhập cá nhân, chu kỳ tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến loại
nguồn vốn này. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và
cho vay. Địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy
động đa dạng đều ảnh hưởng đến tới qui mô và cấu trúc của nguồn tiền. Chu kỳ chi tiêu
ảnh hưởng tới qui mô và tính ổn định của nguồn tiền. Cuối năm lễ tết dân chúng và các
doanh nghiệp cần rất nhiều tiền mặt để chi tiêu, vì thế nguồn tiền này co xu hướng giảm.
Ở những nơi có thu nhập cao như các thành phố dân cư đông hình thành nguồn tiền gửi
lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiên để gia tăng qui mô và thay đổi kì hạn của nguồn tiền.
Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân cũng gia tăng.
Các nguồn gửi thanh toán thường biến động mạnh ( kém ổn định ) hơn tiền gửi tiết kiệm.
2.3 Vốn đi vay
Là số vốn mà NHTM vay của NHTW và các tổ chức tín dụng khác trong trường
hợp cần thiết cho thanh toán. Nguồn vốn này thường có thời hạn và qui mô xác định
trước, do vậy tạo được sự ổn định cho ngân hàng. Nguồn vốn này có thể không phải chịu
dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn nên lãi suất cho vay thường
lớn hơn lãi suất tiền gửi với cùng kỳ hạn. Các NHTM vay NHTW dưới hai hình thức
vay: thanh toán và tái cấp vốn. Việc NHTW cho các NHTM vay dưới hình thức chiết
khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá trước kia mà NHTM đã mua trên thị trường sơ
cấp. Ngoài ra NHTW còn cho các NHTM vay theo sơ đồ tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và sự ổn định vĩ mô
sau đến là các kĩ thuật nhiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy
nợ và thuận tiện đối với người cho vay. Mặc dù lãi suất thường xuyên cao hơn các nguồn
khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy tờ nợ trung và dài hạn khi tiền gửi
khong đáp ứng được những yêu cầu như ổn định, qui mô đủ lớn trong khoảng thời gian
xác định.
2.4 Các nguồn vốn khác
Bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán
Nguồn uỷ thác
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, uỷ
thác giải ngân và thu hộ. Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng.Cùng
với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều tổ chức kinh tế xã hội có cùng
mục tiêu như ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạnh lưới ngân hàng như kênh
dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn
của ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn thanh toán
( séc trong quá trình chi trả, tiền ký quĩ để mở L/C ) Những ngân hàng là ngân hàng đầu
mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền gửi của ngân hàng các thành viên chuyển về để
thực hiện.
II. Huy động vốn của ngân hàng thương mại
1. Khái niệm
Huy động vốn là một nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ bên ngoài để
phục vụ cho kinh doanh của mình.
2. Các hình thức huy động vốn
Các hình thức huy động vốn có thể được phân loại theo tiêu thức phổ biến : theo thời
gian huy động, theo đối tượng huy động, theo loại động tiền huy động và theo công cụ
huy động.
Phân loại theo thời gian huy động
Cách huy động này gồm ba hình thức :
Huy động ngắn hạn
Là hình thức huy động vốn với thời gian từ 12 thánh trở xuống. Vốn ngắn hạn luôn
chiêm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn huy động của các NHTM và được hình thành
chủ yếu từ tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền
thu được từ việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng.
Do thời gian huy động ngắn nên độ rủi ro trong hình thức huy động này thấp hơn các
hình thức huy động vốn dài hạn. Vì vậy lãi suất huy động ngắn hạn bao giờ cũng thấp
hơn lãi suất trung và dài hạn.
Huy động trung hạn
Là hình thức huy động vốn trong thời gian từ 1-5 năm. Vốn trung hạn được hình thành
chủ yếu từ tiền gửi tiết kiệm trung hạn của dân cư, vốn uỷ thác, vốn thu được do phát
hành trái phiếu trung hạn của ngân hàng. NTHM thường sử dụng nguồn vốn này và một
tỷ lệ thích hợp vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn như cho vay các dự án sản xuất
kinh doanh, cho vay tiêu dùng.
Huy động vốn dài hạn
Là hình thức huy động vốn trong thời gian lớn hơn 5 năm. Nguồn cung cấp cho hình
thức huy động vốn này thường nhỏ hơn nhiều lần so với hình thức huy động vốn ngắn
hạn hơn và nó chủ yếu bao gồm vốn thu được do phát hành trái phiếu ngân hàng, vốn uỷ
thác. Ngoài ra, tiền gửi tiết kiệm dài hạn thông thường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm cho
các kế hoạch chi tiêu trong tương lai của cư cũng như đóng góp một tỷ lệ không nhỏ.
Ở nước ta, vốn huy động trong thời hạn dưới 1 năm được gọi là ngắn hạn, từ 1-3
năm gọi là vốn trung hạn và từ 3 năm trở lên gọi là vốn dài hạn
2.2 Phân loại theo đối tượng huy động
Theo cách phân loại này, huy động vốn có thể chia ra làm 4 nhóm sau :
Dân cư
Đây là nguồn có nhiều tiềm năng nhất, cung cấp cho ngân hàng một nguồn vốn có
qui mô lớn và tính ổn định cao. Dân cư có thu nhập và tích trữ nhưng một bộ phận lại
không có khả năng hoặc điều kiện trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhu cầu sinh
lợi đã khiến cho bộ phận này tiến hành đầu tư gián tiếp thông qua việc gửi vào ngân
hàng, ủy thác vốn cho ngân hàng, nắm giữ các chứng khoán mua bảo hiểm. Lý do khác
khiến người dân gửi tiêng vào ngân hàng là do nhu cầu đảm bảo an toàn vốn của họ hoặc
giúp họ thực hiện các chương trình tiết kiệm cho tương lai hoặc vì những tiện ích mà các
sản phẩm của ngân hàng mang lại.
Tổ chức kinh tế
Ngày nay, hầu hết các tổ chức kinh tế đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại
ngân hàng để thuận tiện cho việc giao dịch của mình. Số dư trên mỗi tài khoản này
thường xuyên biến động : doanh thu các tổ chức kinh tế nộp vào làm tăng số dư có tài
khoản này, ngược lại các khoản thanh toán hoặc rút tiền mặt sẽ làm giảm số dư này. Tuy
nhiên, xét trên tổng thể các tài khoản này đã đem lại cho ngân hàng một lượng vốn khá
ổn định, đặc biệt là đối với các NHTM có số lượng khách hàng là các tổ chức kinh tế.
Phát triển và quản lý tốt tài khoản này cho phép ngân hàng có được một nguồn vốn đáng
kể với chi phí thấp.
Các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Đây là đối tượng huy động vốn khá thường xuyên của các NHTM. NHTM huy động
vốn từ các đối tượng này dưới hình thức vay ngắn trên thị trường liên ngân hàng nhằm
mục đích đảm bảo khả năng thanh toán, bù đắp thiếu hụt tạm thời. Các NHTM và tổ chức
tín dụng khi có dự trữ vượt quá yêu cầu ( do có sự gia tăng bất ngờ về các khoản huy
động hoặc giảm cho vay ) họ sẵn sàng cho vay ngắn hạn các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
này để thu lợi nhuận.
Ngoài ra, việc một NHTM này mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại một NHTM
khác cho phép NHTM giữ tài khoản một lượng vốn nhất định, mặc dù nguồn vốn này có
tính ổn định rất thấp.
Ngân hàng Trung ương
NHTM vay vốn của NHTW khi không còn huy động được nguồn nào khác, và chỉ
vay bù đắp thiếu hụt tạm thời hoặc đảm bảo khả năng thanh toán.NHTW cho NHTM vay
chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu hoặc cầm cố các thương phiếu mà NHTM nắm giữ.
NHTW thực hiện những khoản cho vay trên chủ yếu nhằm mục đích thực thi chính
sách tiền tệ của mình,giữ cho hệ thống thanh toán vận hành được trôi chảy hoặc để đảm
bảo an toàn hê thống ngân hàng. NHTW do vậy có qui định rất chặt chẽ trong việc cho
vay này nhằm buộc các NHTM phải quản lý nguồn vốn của mình một cáhc có hiệu quả,
đảm bảo cho các nhu cầu sử dụng và khả năng thanh toán của mình, đồng thời cũng buộc
các NHTM phải năng động và nỗ lực tìm kiếm các nguồn khác trên thị trường tài chính
trước khi nghĩ đến việc vay từ NHTW.
2.3 Phân loại theo loại đồng tiền huy động
Tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng của bản thân và khả năng cung cấp của thị trường
mà NHTM có thể huy động vốn bằng các loại tiền tệ khác nhau. Huy động vốn bằng
đồng ngoại tệ, các ngân hàng phải cân nhắc đến rủi ro hối đoái, lạm phát, lãi suất tương
ứng trên thị trường quốc tế để có lãi suất, kỳ hạn, qui mô huy động cho phù hợp đảm bảo
kế hoạch huy động và hiệu quả.
Theo tiêu thức phân loại này, huy động vốn chia làm hai loại :
+ Huy động vốn bằng đồng bản tệ
+ Huy động vốn bằng đồng ngoại tệ
Ở Việt Nam hiện nay, USD và EUR là đồng ngoại tệ chủ yếu được NHTM tổ chức
huy động và nó trở thành một nguồn vốn quan trọng, chiếm một tỉ trọng không nhỏ trong
tổng nguồn vốn huy động của NHTM.
2.4 Phân loại theo công cụ huy động
Huy động bằng nghiệp vụ nhận tiền gửi
NHTM thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi từ các đối tượng khác nhau như : dân cư,
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ,các ngân hàng, chúng ta có thể phân các món tiền gửi
này theo các nhóm
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành
thanh toán chi trả các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các chi phi phát sinh khác trong
quá trình kinh doanh hoạt động một cách thưòng xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền gửi
thanh toán thường dược bảo quản ở ngân hàng trên hai loại tài khoản : tài khoản tiền gửi
thanh toán và tiền gửi vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc
chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng
mở tài khoản này nhằm mục đich đảm bảo thế năng và sử dụng dễ dàng thuận lợi đồng
vốn của mình khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ có lúc dư có. Với tài
khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một
khoảng thời gian nhất định.
Về phía ngân hàng, mặc dù tiền gửi thanh toán nếu xét trên từng món là nguồn vốn
không ổn định, ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán nó tại bất kỳ thời điểm nào theo yêu
cầu của chủ tài khoản. Nhưng nếu xét trên tổng thể các khoản tiền gửi với qui mô khá ổn
định. Quản lý và dự báo tốt tình hình biện động tiền gửi thanh toán sẽ giúp ngân hàng có
một nguồn vốn không nhỏ với chi phí thấp phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình,
đặc biệt các hoạt động vay ngắn hạn, các hoạt động nắm giữ các tài sản sinh lời có tính
lỏng cao như tín phiếu kho bạc.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn có thu nhập từ thu phí dịch vụ thanh toán. Tiền gửi thanh
toán là một nguồn vốn quan trọng đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Vì vậy, các ngân
hàng luôn cố gắng huy động ngày càng nhiều loại tiền này.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền mà cá nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng với mục
đích hưởng lãi là chính, bên cạnh mục đích an toàn hoặc để thực hiện các chương trình
tiết kiệm cho tương lai. Khách hàng không thể trực tiếp sử dụng tiền trong tài khoản tiết
kiệm để thanh toán qua ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ
hạn. Sử dụng hình thức gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có quyền rút tiền ra bất
cứ lúc nào họ muốn. Tuy nhiên, lãi suất cho hình thức này thấp hơn lãi suất cho hình thức
gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Sử dụng hình thức gửi tiết kiệm có kỳ hạn, khách hàng cũng có
thể rút tiền trước kỳ hạn khi họ muốn. Trong trường hợp này thì khách hàng sẽ chỉ được
nhận với lãi suất bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm, đặc biệt là loại có kỳ hạn được đánh giá là nguồn vốn quan trọng
đối với các NHTM bởi tính ổn định và khả naeng cung ứng cực lớn của thị trường mặc
dù chi phí huy động tương đối cao. Nắm giữ nguồn vốn này trong tay, các NHTM vó thể
tiến hành cjo vay trung và dài hạn nhiều hơn với độ rủi ro thanh khoản thấp.
Các NHTM ở nước ta hiện nay đang thiếu vốn để cho vay trung và dài hạn. Trong tình
hình nhu cầu của nền kinh tế về loại vốn này không ngừng gia tăng, tăng cường huy động
tiền gửi tiết kiệm của dân cư đang là nhiệm vụ trọng tâm của nhiều ngân hàng.
Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu
Để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là việc cho vay trung và
dài hạn, NHTM chủ động huy động vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu trên
thị trường tái chính.
Kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng đều là các giấy tờ nhận nợ của ngân hàng, trong đó
ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho người nắm giữ
nó. Kỳ hạn huy động là điểm khác nhau cơ bản giữa hai công cụ ghi nợ trên: kỳ phiếu
ngân hàng dùng để huy động vốn ngắn hạn ; trái phiếu ngân hàng dùng để huy động vốn
trung và dài hạn. Kỳ phiếu có thời gian ngắn hơn, tính lỏng hơn trái phiếu nên được thị
trường ưa thích hơn. Vì vậy, các NHTM phát hành kỳ phiếu thường xuyên hơn phát hành
trái phiếu. Trái phiếu thường được các ngân hàng phát hành để chuẩn bị tài trợ cho những
dự án cụ thể có vốn đầu tư lớn, thời hạn dài.
Huy động vốn qua nghiệp vụ uỷ thác
NHTM thực hiện các nghiệp vụ ủy thác như : ủy thác cho vay. ủy thác đầu tư, ủy thác
giải ngân, ủy thác thu hộ. Theo đó ngân hàng thực hiện các hoạt động cho vay, đầu tư
giải ngân cho khách hàng của mình bằng nguồn vốn của họ. Nhưng cũng thực hiện hoạt
động thu hộ cho khách hàng khi họ yêu cầu. Thực hiện nghiệp vụ ủy thác, bên cạnh lợi
ích từ việc thu phí dịch vụ ngân hàng còn được nắm giữ vốn ủy thác của khách hàng và
có thể sử dụng nguồn vốn không phải trả lãi này trong những khoảng thời nhất định.
Các ngân hàng thường nhận được ủy thác cho vay, ủy thác giải ngân của khách hàng
lớn như chính phủ, các tổ chức kinh tế lớn, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài.
Do vậy vốn ủy thác thường có qui mô lớn.
Vốn ủy thác là một nguồn vốn chi phí thấp, qui mô lớn và việc sử dụng nó thường
nằm trong kế hoạch nên giúp ngân hàng chủ động trong sử dụng. Do vậy các NHTM luôn
cố gắng mở rộng nguồn vốn này.
III - Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại.
1. Các yếu tố bên ngoài
Thực trạng nền kinh tế
Sự ảnh hưởng của nền kinh tế đến hoạt động huy động vốn của hệ thồng NHTM dưới
2 giác độ :
Khi nền kinh tế đang trong tăng thời kỳ tăng trưởng sẽ tạo ra hàng loạt các điều kiện
thuận lợi cho công tác huy động vốn như sự tích luỹ của nền kinh tế cao, các doanh
nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu đầu tư cao. Các dịch vụ của ngân hàng
được sử dụng nhiều hơn tạo ra các nguồn vốn cho ngân hàng.
Ngược lại khi nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái thì sản xuất kinh doanh của mọi
thành phần kinh tế đình đốn, vật tư hàng hoá ứ đọng, công nhân thất nghiệp… dẫn đến
thu nhập của các doanh nghiệp và dân chúng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, điều đó đồng
nghĩa tích luỹ trong nền kinh tế giảm mạnh. Các nhà đầu tư không muốn đầu tư vào kinh
doanh sản xuất. Và sự lạm phát luôn đi kèm với nền kinh tế suy thoái, làm giá trị đồng
tiền giảm. Tâm lý của dân chúng không muốn gửi tiền vào ngân hàng để t