Trong  sự nghiệp  đổi  mới,   nhất là trong  quá trình  đẩy mạnh  công nghiệp  hoá, 
hiện  đại  hoá  đất nước gắn với phát triển  kinh tế tri thức nhằm mục tiêu dân giàu 
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước vững chắc  đi lên chủ nghĩa xã 
hội,    nhiệm vụ  đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, khai thác và sử dụng tốt 
nhất mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ, mọi khả năng sáng tạo của từng người và 
của toàn thể cộng  đồng dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng.  Đặc biệt là việc bồi 
dưỡng và  đào tạo nguồn nhân lực trẻ lại càng có ý nghĩa quan trọng,   vì nó sẽ quyết 
định mức  độ thành công của sự nghiệp công nghiệp  hoá, hiện  đại  hoá  đất nước ta, 
quyết  định chúng  ta có đạt  được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, 
dân chủ, văn minh hay không. Đồng thời,  đây cũng là  sự  chuẩn  bị  về mọi mặt cho 
thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI một cách vững chắc, tự tin, sánh vai cùng với  tuổi trẻ 
trên  thế giới.  Đại hội X của  Đảng xác  định rõ: “Đối với  thế hệ trẻ, thường xuyên 
giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, 
lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ  Tổ quốc”. 
Đội ngũ sinh viên là một trong những bộ phận quan trọng của thế hệ trẻ đất nước 
ta hiện nay.  Sinh viên chính là những người lao động có trình độ cao  trong tương lai, là 
nguồn lực chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá  gắn với phát triển kinh 
tế tri  thức. Hiện nay,  số lượng sinh viên  ở Tây Nguyên  là  khá lớn. Bồi dưỡng, giáo dục 
cho họ khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân 
với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, những kiến thức về mục tiêu và con đường đi 
lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan phù hợp với yêu cầu chung của công cuộc 
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. 
Trong bối cảnh  kinh tế, chính trị trên thế giới và trong nước có những diễn 
biến phức tạp, trên địa bàn Tây Nguyên  các thế lực thù địch tiếp tục chống phá  Đảng 
và  Nhà nước ta với nhiều thủ  đoạn, âm mưu nhằm chia rẽ khối  đại  đoàn kết dân tộc, 
lôi kéo và tha  hoá  thế hệ trẻ, nhằm làm cho thế hệ trẻ bị phai nhạt lý t ưởng xã hội 
chủ nghĩa.  Đồng thời nền kinh tế thị trường cũng có  nhiều  tác động tiêu cực  đối với 
sinh viên.    Điển hình là các biểu hiện của  lối sống thực dụng, tâm lý trông chờ vào 
may rủi,  một bộ phận  đang chịu ảnh hưởng  thế giới quan tôn giáo, duy tâm…  Thực 
tế  ở Tây Nguyên đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ sinh  viên có lối  sống  mơ hồ về 
chính trị, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí suy thoái về  đạo  đức…  và, 
họ đang  bị các thế lực phản  động kích động, lôi kéo.  Điều tai hại là, với “hành trang” 
tư duy  ấy,  đang tiềm tàng trong họ những triển vọng không  đáng mong đợi của 
những người mang vị thế chủ nhân tương lai của đất nước. 
Xây dựng một thế giới quan khoa học cho sinh viên là nhiệm vụ chiến lược 
trong  quá  trình giáo dục đội ngũ lao động dự bị và cũng là những chủ nhân tương lai 
của dân tộc, theo  đó,  lại là công việc vô cùng cần thiết.  Chính vì vậy, giáo dục thế 
giới quan duy vật biện chứng  cho  của  đội ngũ sinh viên  ở Tây Nguyên  là nhiệm vụ 
cấp bách hiện nay. 
Với ý nghĩa  đó, tôi chọn  đề tài “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng 
cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 82 trang
82 trang | 
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2935 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
V 
LUẬN VĂN: 
Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng 
cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của đề tài 
Trong sự nghiệp đổi mới, nhất là trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức nhằm mục tiêu dân giàu 
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã 
hội, nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, khai thác và sử dụng tốt 
nhất mọi tiềm năng về thể chất và trí tuệ, mọi khả năng sáng tạo của từng người và 
của toàn thể cộng đồng dân tộc có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt là việc bồi 
dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực trẻ lại càng có ý nghĩa quan trọng, vì nó sẽ quyết 
định mức độ thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta, 
quyết định chúng ta có đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, 
dân chủ, văn minh hay không. Đồng thời, đây cũng là sự chuẩn bị về mọi mặt cho 
thế hệ trẻ bước vào thế kỷ XXI một cách vững chắc, tự tin, sánh vai cùng với tuổi trẻ 
trên thế giới. Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Đối với thế hệ trẻ, thường xuyên 
giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, 
lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. 
Đội ngũ sinh viên là một trong những bộ phận quan trọng của thế hệ trẻ đất nước 
ta hiện nay. Sinh viên chính là những người lao động có trình độ cao trong tương lai, là 
nguồn lực chủ yếu cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh 
tế tri thức. Hiện nay, số lượng sinh viên ở Tây Nguyên là khá lớn. Bồi dưỡng, giáo dục 
cho họ khát vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giàu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân 
với tương lai của cộng đồng, của dân tộc, những kiến thức về mục tiêu và con đường đi 
lên chủ nghĩa xã hội là yêu cầu khách quan phù hợp với yêu cầu chung của công cuộc 
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. 
Trong bối cảnh kinh tế, chính trị trên thế giới và trong nước có những diễn 
biến phức tạp, trên địa bàn Tây Nguyên các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng 
và Nhà nước ta với nhiều thủ đoạn, âm mưu nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, 
lôi kéo và tha hoá thế hệ trẻ, nhằm làm cho thế hệ trẻ bị phai nhạt lý tưởng xã hội 
chủ nghĩa. Đồng thời nền kinh tế thị trường cũng có nhiều tác động tiêu cực đối với 
sinh viên. Điển hình là các biểu hiện của lối sống thực dụng, tâm lý trông chờ vào 
may rủi, một bộ phận đang chịu ảnh hưởng thế giới quan tôn giáo, duy tâm… Thực 
tế ở Tây Nguyên đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ sinh viên có lối sống mơ hồ về 
chính trị, phai nhạt lý tưởng xã hội chủ nghĩa, thậm chí suy thoái về đạo đức… và, 
họ đang bị các thế lực phản động kích động, lôi kéo. Điều tai hại là, với “hành trang” 
tư duy ấy, đang tiềm tàng trong họ những triển vọng không đáng mong đợi của 
những người mang vị thế chủ nhân tương lai của đất nước. 
Xây dựng một thế giới quan khoa học cho sinh viên là nhiệm vụ chiến lược 
trong quá trình giáo dục đội ngũ lao động dự bị và cũng là những chủ nhân tương lai 
của dân tộc, theo đó, lại là công việc vô cùng cần thiết. Chính vì vậy, giáo dục thế 
giới quan duy vật biện chứng cho của đội ngũ sinh viên ở Tây Nguyên là nhiệm vụ 
cấp bách hiện nay. 
Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng 
cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học. 
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đền đề tài 
Vấn đề thế giới quan duy vật biện chứng ở nước ta từ trước đến nay đã có nhiều 
tác giả nghiên cứu. Chẳng hạn, Bùi Ngọc có bài viết “Thế giới quan khoa học một tất 
yếu lịch sử”, đăng ở Tạp chí thông tin khoa học xã hội, 1981, số 8. Trong bài viết này, 
tác giả tập trung phân tích sự hình thành và phát triển của thế giới quan khoa học là một 
tất yếu lịch sử. 
Ở một góc độ khác, Lê Xuân Vũ khẳng định “Thế giới quan Mác - Lênin trong 
đời sống tinh thần của nhân dân ta”, Tạp chí Cộng sản, 186, số 6. Trong đó tác giả đã 
có sự lý giải khá thuyết phục tầm quan trọng của thế giới quan Mác - Lênin trong đời 
sống xã hội Việt Nam. Hay như tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã tiếp cận vấn đề thế giới 
từ khía cạnh sinh học, trong bài “Một số khía cạnh về vai trò của sinh học hiện đại đối 
với sự hình thành và củng cố thế giới quan khoa học”, đăng ở Tạp chí Triết học 1988, 
số 3. 
Ngoài một số bài viết trên, còn có một số luận án và luận văn cũng nghiên cứu 
vấn đề thế giới quan. Bùi Ỉnh đã nghiên cứu “Vấn đề xây dựng thế giới quan duy vật 
biện chứng đối với cán bộ đảng viên là người dân tộc thiểu số trong thời kỳ quá độ lên 
chủ nghĩa xã hội ở nước ta”, Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ 
Chí Minh, 1988. Còn Trần Thước tập trung nghiên cứu thế giới quan của riêng đội ngũ 
trí thức: “Sự hình thành thế giới quan xã hội chủ nghĩa ở tầng lớp trí thức ở Việt Nam”, 
Luận án PTS Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993. 
Trần Thanh Hà, Trần Viết Quân, Nguyễn Thị Luyến... tập trung nghiên cứu thế 
giới quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một khu vực nhất định. Nếu Trần Thanh Hà 
nghiên cứu “Vấn đề giáo dục thế giới quan khoa học cho cán bộ đảng viên người dân 
tộc Kh’mer ở Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ 
Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1993, thì Trần Viết Quân lại đi sâu 
tìm hiểu vấn đề “Bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ chủ 
chốt cấp huyện ở Tây Nguyên hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị 
quốc gia Hồ Chí Minh, 2002. Còn Nguyễn Thị Luyến và Bùi Kiến Thưởng lại tìm đến 
đối tượng là sinh viên hay học viên, như “Vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện 
chứng cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng ở Hà Nội hiện nay”, Luận văn thạc 
sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005 của Nguyễn Thị Luyến. 
Hay“Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị 
tỉnh Hà Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Triết học của Bùi Kiến Thưởng, Học viện 
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2004. 
Tất cả những tác giả trên đã đề cập đến: 
- Khái niệm thế giới quan nói chung, thế giới quan khoa học nói riêng, cấu trúc 
và chức năng của thế giới quan. 
- Tầm quan trọng và tính tất yếu của việc xây dựng thế giới quan duy vật biện 
chứng cho các đối tượng như: sinh viên, học viên, cán bộ nói chung trong công cuộc 
xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
- Nêu ra những nhân tố cơ bản trong việc hình thành, tác động phát triển thế giới 
quan duy vật biện chứng. 
- Đưa ra một số giải pháp cụ thể và những quan điểm nhằm bồi dưỡng và phát 
triển thế giới quan duy vật biện chứng cho một số đối tượng cụ thể. 
Riêng vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây 
Nguyên hiện chưa có tác giả nào bàn tới. 
Xuất phát từ tình hình thực tế biểu hiện thế giới quan của sinh viên các trường 
Đại học, Cao đẳng ở Tây Nguyên, từ tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan 
duy vật biện chứng đối với thế hệ trẻ và đối với đội ngũ sinh viên, với mong muốn đóng 
góp một phần vào sự nghiệp bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước, tôi chọn 
đề tài: “Giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện 
nay”. 
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 
3.1. Mục đích của luận văn 
Trên cơ sở phân tích thực trạng của việc giáo dục thế giới duy vật biện chứng 
cho sinh viên ở Tây Nguyên hiện nay, tác giả luận văn đưa ra một số giải pháp chủ yếu 
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho 
tầng lớp này. 
3.2. Nhiệm vụ của luận văn 
Luận văn tập trung làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu sau: 
- Phân tích vai trò, tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan duy vật biện 
chứng; xác định những nhân tố tác động đến thế giới quan và quá trình giáo dục thế giới 
quan duy vật biện chứng cho sinh viên. 
- Làm rõ thực trạng, những vấn đề đặt ra trong quá trình giáo dục thế giới quan 
duy vật biện chứng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng và 
hiệu quả quá trình này cho sinh viên Tây Nguyên. 
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 
4.1. Đối tượng nghiên cứu 
Luận văn nghiên cứu thực trạng và bước đầu đưa ra một số giải pháp chủ yếu để 
nâng cao chất lượng, hiệu quả nhằm giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh 
viên ở Tây Nguyên hiện nay. 
4.2. Phạm vi nghiên cứu 
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng 
cho sinh viên các trường Đại học, Cao Đẳng ở Tây Nguyên trong giai đoạn 10 năm 
gần đây (2000 - 2009) từ góc độ triết học. 
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 
5.1. Cơ sở lý luận 
Từ các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện 
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục thế giới quan, nhận thức luận…cho 
thế hệ trẻ và sinh viên, tác giả kế thừa những thành tựu lý luận của các tác giả về những vấn 
đề có liên quan đến đề tài. 
5.2. Phương pháp nghiên cứu 
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ 
nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch sử, 
phương pháp điều tra xã hội học… 
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn 
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc giáo dục thế giới quan 
duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên. 
- Đánh giá đúng thực trạng và bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng 
cao hiệu quả giáo dục thế giới quan duy vật biện chứng cho họ. 
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ những cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả giáo 
dục thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên ở Tây Nguyên. 
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác giáo dục - đào tạo ở 
các trường Đại học, Cao Đẳng. 
8. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn 
gồm 2 chương, 6 tiết. 
Chương 1 
THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ 
TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIÁO DỤC THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT 
BIỆN CHỨNG CHO SINH VIÊN Ở TÂY NGUYÊN HIỆN NAY 
1.1. THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN DUY VẬT BIỆN CHỨNG 
1.1.1. Thế giới quan 
 Do yêu cầu tự nhiên và tất yếu của cuộc sống, con người không chỉ thích nghi 
với hoàn cảnh bên ngoài một cách thụ động mà luôn luôn phải tìm cách biến đổi nó 
nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của mình. Để đạt được mục đích đó, con người 
nảy sinh nhu cầu tìm hiểu giới tự nhiên cũng như chính bản thân mình. Từ đó một 
loạt vấn đề xuất hiện: Thế giới quanh ta là gì? Bản chất của nó ra sao? Sức mạnh nào 
chi phối sự tồn tại và biến đổi của nó? Con người là gì? Con người có vị trí như thế 
nào trong thế giới đó? Cuộc sống con người có ý nghĩa gì?... Trả lời những câu hỏi 
này sẽ hình thành ở con người những quan điểm, quan niệm nhất định về thế giới, về 
vị trí con người trong thế giới ấy. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan của con 
người. 
Thế giới quan xuất hiện từ thời nguyên thuỷ, song với tư cách là một khái niệm 
khoa học thì được nghiên cứu và xuất hiện vào thế kỷ XVIII, do Kant - nhà triết học cổ 
điển Đức nêu ra. Các nhà triết học người Đức nửa đầu thế kỷ XIX và các nhà triết học 
sau này đã tiếp tục sử dụng khái niệm trên trong các học thuyết của mình. Tiếp nối 
truyền thống đó, C.Mác và Ph.Ăngghen, đã kế thừa và phát triển thành một thế giới 
quan khoa học trên lập trường duy vật biện chứng. 
Khái niệm thế giới quan hiện nay đã được nhiều nhà khoa học đương đại nghiên 
cứu và tiếp cận ở nhiều cấp độ và đưa ra các định nghĩa khác nhau. Trong Từ điển Triết 
học, các nhà khoa học Liên Xô đưa ra định nghĩa thế giới quan là: “toàn bộ những 
nguyên tắc, quan điểm và niềm tin quy định hướng hoạt động và quan hệ của từng 
người, của tập đoàn xã hội, của một giai cấp hay xã hội nói chung đối với thực tại”[56, 
tr.539]. 
Theo một tác giả khác, thế giới quan là “một hệ thống nhất định những lời giải 
đáp những vấn đề cội nguồn của thế giới và nguồn gốc của tri thức, về vị trí của con 
người trong thế giới, về ý nghĩa của cuộc sống và đặc trưng của tiến bộ xã hội”[25, 
tr.42]. 
Hay một quan niệm khác: 
Thế giới quan là hệ thống những quan điểm của một chủ thể về thế giới, 
về những hiện tượng về tự nhiên và xã hội và các quy luật phát triển của 
chúng, về bản thân con người, về vị trí, vai trò của con người trước thế giới. 
Nói một cách khác, thế giới quan là phản ánh tồn tại vật chất và xã hội của 
con người [53, tr.10]. 
Từ những quan điểm về thế giới quan ở trên chúng tôi quan niệm rằng: Thế 
giới quan là hệ thống những quan điểm của một người hoặc một tập đoàn người, 
một giai cấp hay toàn xã hội về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế 
giới đó, về chính bản thân cuộc sống con người và loài người trong mỗi giai đoạn 
lịch sử nhất định. Trên cơ sở đó, thế giới quan định hướng cho hoạt động nhận 
thức, hoạt động cải tạo thế giới của họ, điều chỉnh hành vi của con người trong 
cuộc sống hàng ngày. 
Hiểu thế giới quan với nghĩa như vậy là bao hàm cả nhân sinh quan, tức là toàn 
bộ những quan niệm về cuộc sống của con người và loài người. Thế giới quan hình 
thành trên cơ sở những hiểu biết của con người về tự nhiên, về xã hội và về chính bản 
thân con người. Như vậy, có thể khẳng định rằng thế giới quan là lập trường sống của 
chủ thể. Bởi vì, nếu được trang bị thế giới quan đúng đắn và khoa học sẽ giúp chủ thể 
có lập trường vững vàng trước những biến động của cuộc sống, trước những tác động 
của những tư tưởng khác biệt hoặc đối lập. 
Cũng theo cách hiểu thế giới quan như trên, thì thế giới quan gồm có thế giới 
quan cá nhân, thế giới quan giai cấp và thế giới quan xã hội. 
Thế giới quan cá nhân là những kinh nghiệm sống, những tri thức của cá nhân 
nhất định về tự nhiên, xã hội và con người xung quanh. Tri thức tích luỹ được giúp cá 
nhân có lập trường để bảo vệ những quan điểm của riêng mình. Tri thức và niềm tin của 
mỗi người được phát triển đến một mức độ nào đó sẽ tạo nên lý tưởng sống của người 
đó. Như vậy, sự hình thành thế giới quan cá nhân là một quá trình lâu dài và phụ thuộc 
nhiều yếu tố, nhiều điều kiện khác nhau. Chẳng hạn như: trình độ hiểu biết của từng 
người, chế độ xã hội, địa bàn sinh sống, điều kiện vật chất và tinh thần của cá nhân, và 
nhất là yếu tố giáo dục. Chính vì vậy, phẩm chất của thế giới quan cá nhân có thể thể 
thay đổi theo những yếu tố và điều kiện đó. Do đó, việc giáo dục thế giới quan đúng 
đắn, khoa học cho cá nhân là rất cần thiết cho một xã hội tiến bộ. 
Thế giới quan giai cấp là hệ thống những quan điểm của một giai cấp về thế giới, 
về con người và về vị trí, vai trò, lợi ích của giai cấp ấy, nó phản ánh vị thế (tiến bộ hay 
lạc hậu) của giai cấp đó trong tiến trình của lịch sử. 
Thế giới quan xã hội là hệ thống những quan điểm về thế giới, về vị trí con người 
trong thế giới được xây dựng trên những phạm trù, nguyên lý; được trình bày trong học 
thuyết của giai cấp thống trị trong đó lợi ích của giai cấp thống trị “được trình bày như 
đại diện cho lợi ích của toàn xã hội”. Thế giới quan xã hội do các nhà tư tưởng, các nhà 
lý luận xây dựng nên, nó có thể khoa học, có thể không khoa học. Điều này phải được 
thực tiễn kiểm nghiệm, chứng minh là khoa học hay không. 
Về kết cấu (cấu trúc) của thế giới quan thường bao gồm những yếu tố sau: 
- Tri thức: cũng giống như mọi ý thức xã hội, thế giới quan bao gồm những tri 
thức về tự nhiên, xã hội và con người nhưng không phải mọi tri thức đều là tri thức về 
thế giới quan. Mà chỉ là những tri thức nào biểu thị quan điểm chung về tồn tại và về 
nhận thức mới là những tri thức về thế giới quan. Trong nội dung tri thức về thế giới 
quan thì những tri thức triết học đóng vai trò nền tảng của mọi thế giới quan ở các giai 
đoạn phát triển của nó. 
- Niềm tin: niềm tin là một động lực thúc đẩy khát vọng nhận thức và cải tạo hiện 
thực của con người, nó được phát triển trên cơ sở tri thức. Niềm tin là một trạng thái 
tâm lý, tinh thần đặc biệt, nó có vai trò to lớn trong hoạt động của con người. Nếu 
con người làm một việc gì đó, mà không có niềm tin vào sự đúng đắn của tri thức, 
của tư tưởng thì con người sẽ bị tước mất những rung động ý chí, khát vọng, nghị 
lực, lòng nhiệt tình, sự cổ vũ cần thiết đối với công việc, đặc biệt là đối với những 
công việc xã hội rộng lớn. Niềm tin giúp con người có nghị lực để có thể vượt qua 
được những giây phút hiểm nghèo và dám hy sinh vì những mục đích cao cả. Như 
vậy, niềm tin được xác lập trên cơ sở của tri thức khoa học sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của 
xã hội. 
- Lý tưởng: đó là sự kết hợp niềm tin và tri thức vào một tiêu chí, hình mẫu, sự 
hoàn thiện, mục tiêu tối cao của ý nguyện và hoạt động thực tiễn, mô hình tuyệt vời 
trong thực tế đối với một cá nhân, một nhóm người hay một xã hội. Lý tưởng giúp con 
người định hình được cuộc sống, sống có mục đích, có khát vọng. 
Như vậy, trong ba yếu tố cấu thành thế giới quan, tri thức là cơ sở trực tiếp cho 
sự hình thành thế giới quan, nhưng tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở 
thành niềm tin của con người qua sự thể nghiệm lâu dài trong cuộc sống của họ và sự 
hình thành lý tưởng là sự phát triển ở trình độ cao của thế giới quan. 
Trong lịch sử phát triển của xã hội, thế giới quan được thể hiện dưới nhiều hình 
thức đa dạng khác nhau, nhưng tập trung ở ba hình thức chủ yếu: thế giới quan thần 
thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới quan triết học. 
Thế giới quan thần thoại: là những quan niệm sơ khai về thế giới của người 
nguyên thuỷ. Nó là kết quả của những cảm xúc ban đầu của người nguyên thuỷ về thế 
giới và con người mà trong đó có sự hoà quyện giữa cái có thật và cái hoang tưởng, cái 
hiện thực và cái hư ảo, cái lý trí và cái tín ngưỡng, tư duy và cảm xúc… 
Thế giới quan tôn giáo: là sự phản ánh một cách hư ảo hiện thực. Nó xuất phát 
trong bối cảnh trình độ nhận thức và thực tiễn của con người còn thấp kém, khi con 
người bất lực hoàn toàn trước sức mạnh “thần thánh” của tự nhiên (sấm sét, bão lụt, 
động đất, thú dữ, hạn hán…) và sức mạnh “thần bí” của xã hội (bệnh tật, nỗi khổ cực, 
áp bức, thống trị…). Trong điều kiện đó, con người đã thần thánh hoá các lực lượng tự 
nhiên và các thế lực xã hội, gán cho chúng một sức mạnh siêu nhiên. Có thể nói rằng, 
đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là ở “niềm tin sợ hãi” của con người vào 
sự tồn tại và sức mạnh siêu nhiên của thần thánh. Đồng thời, là sự bày tỏ nguyện vọng 
được giải thoát khỏi những khổ đau để vươn tới hạnh phúc vĩnh hằng. Yếu tố nền tảng 
trong thế giới quan tôn giáo là niềm tin tôn giáo, bao gồm cả niềm tin vào khả năng đạt 
tới cuộc sống tốt đẹp. 
Thế giới quan triết học: là trình độ cao của thế giới quan. Nó ra đời trên cơ sở 
trình độ nhận thức của con người đã đạt đến sự khái quát hoá, trừu tượng hoá. Hơn nữa, 
thế giới quan triết học thường được các lực lượng xã hội sử dụng để truyền bá hệ tư 
tưởng của giai cấp mình. Thế giới quan triết học diễn tả những vấn đề của thế giới bằng 
hệ thống lý luận các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nó không chỉ trình bày các quan 
điểm của mình, mà còn luận chứng cho các quan điểm ấy bằng lý tính và những cơ sở 
khoa học nhất định. Khi phân biệt thế giới quan triết học với các thế giới quan khác 
C.Mác viết: 
Các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền rủa, 
than vãn, triết học dạy bảo, các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế giới, 
triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín 
ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết luận của nó, 
nó đòi hỏi kiểm nghiệm những hoài nghi; các vị doạ dẫm, triết học an ủi. Và, 
thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết luận của 
nó không bao dung sự khao khát hưởng lạc và lòng vị kỷ - của cả thiên giới 
lẫn thế giới trần tục [32, tr.416]. 
Có thể chia thế giới quan tri