Hội nhập quốc tế luôn tạo ra những cơ hội và triển vọng nhưng đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức to lớn.Cơ hội được tạo ra do sự mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao sức
cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.Bên cạnh đó, những thách thức đặt ra cũng không
nhỏ nhất là đối với những nước đang phát triển khi mà hội nhập sẽ đồng nghĩa với việc mở
cửa thị trường nội địa và đặt các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt của
nước ngoài.Đánh giá một cách tổng quan, chúng ta thấy rằng mặc dù Việt Nam đã có những
bước tiến mới trong quá trình hội nhập những nền kinh tế nước ta vẫn còn nhỏ bé và lạc
hậu.Lợi thế so sánh của nước ta hiện nay trong quan hệ thương mại với các bạn hàng chủ yếu
vẫn dựa trên các sản phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô và hiện nay, đang bắt đầu có sự
chuyển dịch sang một số ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều sức lao động như dệt may,
giầy da…..
Với xu thế phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh ngày càng trở
nên gay gắt và khốc liệt. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh tranh cố định, các
doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường với những đối thủ cạnh tranh biến đổi
nhanh chóng, những tiến bộ về công nghệ, những đạo luật mới, những chính sách quản lý
mới thích hợp với từng thời kỳ kinh tế.Điều đó đòi hỏi mỗi một doanh nghiệp phải luôn coi
chiến lược marketing là một triết lý của toàn công ty, chứ không phải chỉ là chức năng riêng
biệt.Một lĩnh vực hay một ngành nào đó muốn tồn tại và phát triển trên thương trường thì
phải có ưu thế về mọi mặt, phải có một chiến lược marketing rõ ràng.
Và ngành dệt may ở Việt Nam cũng đang tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc trên
thị trường quốc tế.Đây là ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
và đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Ngành may mặcViệt Nam thực sự khởi sắc từ đầu thập niên 90 và có tốc độ tăng trưởng
khá nhanh. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam được đánh giá cao
về chất lượng. Nhờ lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá nhân công thấp nên hàng may mặc
của Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn trên thị trường.
Hiện nay, các sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng, cạnh
tranh về giá cả, đa dạng về mẫu mã, nên đã xâm nhập thành công vào một số thị trường lớn
như:Mỹ, EU, Nhật Bản……
Song kể từ sau ngày 1-1-2005, việc bỏ quota nhập khẩu đối với các thành viên WTO đã
làm cho bản đồ xuất khẩu dệt may thay đổi, dòng thương mại dệt may sẽ chuyển sang các thị
trường có sức cạnh tranh cao hơn, đến với doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số
lượng, chất lượng, giá cả, thời gian……Chính vì vậy, bất kỳ công ty sản xuất kinh doanh
thuộc ngành may mặc luôn xác định được rằng việc xây dựng một chiến lược marketing luôn
là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với công ty.
Xuất phát từ thực tế trên, trong thời gian thực tập tại công ty sản xuất- xuất nhập khẩu
Việt An, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất-xuất nhập khẩu Việt An”.
67 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất- Xuất nhập khẩu Việt An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất
khẩu hàng may mặc của công ty sản
xuất- xuất nhập khẩu Việt An
Lời nói đầu
Hội nhập quốc tế luôn tạo ra những cơ hội và triển vọng nhưng đồng thời cũng đặt ra
nhiều thách thức to lớn.Cơ hội được tạo ra do sự mở rộng thị trường xuất khẩu, nâng cao sức
cạnh tranh và tính hiệu quả của nền kinh tế.Bên cạnh đó, những thách thức đặt ra cũng không
nhỏ nhất là đối với những nước đang phát triển khi mà hội nhập sẽ đồng nghĩa với việc mở
cửa thị trường nội địa và đặt các ngành sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh gay gắt của
nước ngoài.Đánh giá một cách tổng quan, chúng ta thấy rằng mặc dù Việt Nam đã có những
bước tiến mới trong quá trình hội nhập những nền kinh tế nước ta vẫn còn nhỏ bé và lạc
hậu.Lợi thế so sánh của nước ta hiện nay trong quan hệ thương mại với các bạn hàng chủ yếu
vẫn dựa trên các sản phẩm nông nghiệp, nguyên liệu thô và hiện nay, đang bắt đầu có sự
chuyển dịch sang một số ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều sức lao động như dệt may,
giầy da…..
Với xu thế phát triển không ngừng của nền kinh tế thế giới, cạnh tranh ngày càng trở
nên gay gắt và khốc liệt. Thay vì một thị trường với những đối thủ cạnh tranh cố định, các
doanh nghiệp phải hoạt động trong một môi trường với những đối thủ cạnh tranh biến đổi
nhanh chóng, những tiến bộ về công nghệ, những đạo luật mới, những chính sách quản lý
mới thích hợp với từng thời kỳ kinh tế.Điều đó đòi hỏi mỗi một doanh nghiệp phải luôn coi
chiến lược marketing là một triết lý của toàn công ty, chứ không phải chỉ là chức năng riêng
biệt.Một lĩnh vực hay một ngành nào đó muốn tồn tại và phát triển trên thương trường thì
phải có ưu thế về mọi mặt, phải có một chiến lược marketing rõ ràng.
Và ngành dệt may ở Việt Nam cũng đang tìm cho mình một chỗ đứng vững chắc trên
thị trường quốc tế.Đây là ngành công nghiệp có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
và đã đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển kinh tế của đất nước.
Ngành may mặcViệt Nam thực sự khởi sắc từ đầu thập niên 90 và có tốc độ tăng trưởng
khá nhanh. Trên thị trường quốc tế, hàng may mặc có xuất xứ từ Việt Nam được đánh giá cao
về chất lượng. Nhờ lợi thế về nguồn lao động dồi dào, giá nhân công thấp nên hàng may mặc
của Việt Nam có khả năng cạnh tranh lớn trên thị trường.
Hiện nay, các sản phẩm dệt may của Việt Nam ngày càng nâng cao về chất lượng, cạnh
tranh về giá cả, đa dạng về mẫu mã, nên đã xâm nhập thành công vào một số thị trường lớn
như:Mỹ, EU, Nhật Bản……
Song kể từ sau ngày 1-1-2005, việc bỏ quota nhập khẩu đối với các thành viên WTO đã
làm cho bản đồ xuất khẩu dệt may thay đổi, dòng thương mại dệt may sẽ chuyển sang các thị
trường có sức cạnh tranh cao hơn, đến với doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số
lượng, chất lượng, giá cả, thời gian……Chính vì vậy, bất kỳ công ty sản xuất kinh doanh
thuộc ngành may mặc luôn xác định được rằng việc xây dựng một chiến lược marketing luôn
là vấn đề quan trọng hàng đầu đối với công ty.
Xuất phát từ thực tế trên, trong thời gian thực tập tại công ty sản xuất- xuất nhập khẩu
Việt An, em đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty sản xuất-
xuất nhập khẩu Việt An”.
* Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm phân tích, đánh giá quá trình xây dựng chiến lược
marketing xuất khẩu hàng may mặc của công ty trong thời gian qua. Đồng thời, đề tài cũng
chỉ ra những thành công và những thách thức để qua đó thấy được ưu- nhược điểm của nó.
Từ đó vận vận dụng tư duy kinh tế và cơ chế kinh doanh để đề xuất những biện pháp nhằm
hoàn thiện quá trình hoạch địch chiến lược Marketing xuất khẩu hàng may mặc của Công ty.
* Giới hạn – phạm vi nghiên cứu đề tài: đề tài được chọn nghiên cứu ở khâu quan trọng,
có nhiều mối quan hệ kinh tế và liên quan đến rất nhiều vấn đề trong và ngoài Công ty. Do
không đủ điều kiện để đề cập toàn diện và giải quyết triệt để những vấn đề đặt ra. Vì vậy, giới
hạn đề tài nghiên cứu trên góc độ tiếp cận môn học Marketing là chính.
* Phương pháp nghiên cứu: phương pháp tiếp cận hệ thống và lôgic phương pháp phân
tích số liệu, phương pháp so sánh. Các phương pháp này vừa phân tích biện chứng, vừa đặt
nó vào hệ thống lớn của quá trình nghiệp kinh doanh ở Công ty.
Luận văn tốt nghiệp được hoàn thiện với 3 chương:
- Chương I : Một số lý luận cơ bản về chiến lược Marketing xuất khẩu của công ty kinh
doanh quốc tế.
- Chương II : Thực trạng chiến lược Marketing xuất khẩu mặt hàng may mặc của công
ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An.
- Chương III : Một số đề xuất nhằm hoàn thiện chiến lược Marketing xuất khẩu hàng
may mặc của công ty sản xuất – xuất nhập khẩu Việt An.
Chương I: một số lý luận cơ bản về hoàn
thiện chiến lược marketing xuất khẩu
của công ty kinh doanh
1.1. Khái niệm, bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu.
1.1.1.Khái niệm về Marketing xuất khẩu.
Trước khi tìm hiểu khái niệm Marketing xuất khẩu ta phải hiểu được khái niệm về
marketing:
- Theo Philip Kotler: Marketing là sự phân tích tổ chức kế hoạch hóa và khả năng thu hút
khách của một công ty cũng như chính sách và hoạt động với quan điểm thỏa mãn nhu cầu và
mong muốn của nhóm khách hàng đã lựa chọn.
- Các nhà làm công tác Marketing ở Việt Nam đã đưa ra được định nghĩa Marketing phù
hợp, đầy đủ và xác thực như sau :
"Marketing là chức năng quản lý công ty về tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động kinh
doanh từ việc phát hiện ra nhu cầu và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực
sự về một loại hàng cụ thể đến việc đưa hàng hóa đó đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng
nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận cao nhất".
Marketing bao gồm hai loại là Marketing nội địa và Marketing quốc tế. Một trong những
hình thức của Marketing quốc tế được biểu hiện dưới hình thức Marketing xuất khẩu.
Và Marketing xuất khẩu có thể hiểu là:
"Marketing xuất khẩu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh định hướng dòng vận
động hàng hóa và địch vụ của các công ty tới người tiêu dùng hoặc sử dụng ở nhiều quốc gia
nhằm thu lợi nhuận cho công ty".
1.1.2. Bản chất và vai trò của Marketing xuất khẩu.
a) Bản chất của Marketing xuất khẩu.
Marketing xuất khẩu là một lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu chiếm lĩnh trên các thị trường nước ngoài. Sự khác nhau cơ bản giữa Marketing nội địa
và Marketing quốc tế ở chỗ là các hoạt động Marketing quốc tế phản ánh mức độ phức tạp và
tính đa dạng do phải đối phó với tính đa dạng của môi trường quốc tế.
Bản chất của Marketing quốc tế là xem xét và cân đối giữa những thay đổi của các yếu tố
môi trường bên ngoài và các chính sách Marketing hỗn hợp của công ty trên thị trường quốc
tế. Nhà quản trị Marketing quốc tế có nhiệm vụ hệ thống hóa và thi hành các chính sách
Marketing nhằm đảm bảo sự thích ứng giữa khả năng của doanh nghiệp với thị trường và môi
trường của nó nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Chính điều này đòi hỏi các doanh nghiệp khi
tham gia vào thị trường quốc tế phải đưa ra một chương trình Marketing bao gồm các vấn đề
sau : đánh giá và lựa chọn thị trường, xác định phương thức hoạt động thích hợp và xác lập
các chính sách Marketing của công ty trên thị trường quốc tế.
b) Lợi ích của Marketing xuất khẩu.
Trong xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, hoạt động xuất nhập khẩu có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng. Trong đó sự đóng góp của Marketing xuất khẩu là rất cần thiết. Bởi vì bản
thân hoạt động xuất nhập khẩu là một hoạt động vô cùng phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro
khó có thể lường trước được như : những biến động về kinh tế-chính trị , xã hội, văn hóa, hệ
thống pháp luật… của nước nhập khẩu. Qua đó, hoạt động Marketing xuất khẩu có thể đem
lại những lợi ích to lớn cho mỗi doanh nghiệp.
Thứ nhất, các công ty hoạt động trên phạm vi quốc tế có thể đạt mức doanh số lớn hơn
nhờ thực hiện chuyển giao các khả năng riêng biệt của mình. Các khả năng riêng biệt này
được hiểu là những điểm mạnh duy nhất cho phép công ty đạt được hiệu quả, chất lượng, đổi
mới hoặc sự nhạy cảm với khách hàng cao hơn.
Thứ hai, việc tham gia các hoạt động quốc tế cho phép doanh nghiệp có thể hạ thấp chi
phí nhờ có được lợi thế quy mô và hiệu ứng "đường cong kinh nghiệm"; lợi thế quy mô cho
phép giảm chi phí cố định của một sản phẩm do chia chi phí cố định theo mức sản lượng lớn.
Tác động của đường cong kinh nghiệm sẽ làm giảm chi phí khả biến đơn vị sản phẩm do
nâng cao kỹ năng, kỹ xảo của người lao động.
Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế theo quy mô có thể không có được nếu thị hiếu của khách
hàng trong nước và những đặc điểm khác ở các nước khác nhau đòi hỏi một số các điều chỉnh
sản phẩm – phụ thuộc vào các sản phẩm liên quan và phương pháp sản xuất ra sản phẩm đó.
Ngoài ra, kinh doanh ở thị trường nước ngoài sẽ giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có
những ý tưởng mới mẻ hay những phương pháp khác nhau để giải quyết vấn đề. Từng cá
nhân sẽ phát triển kỹ năng quản lý chung của họ và nâng cao hiệu suất cá nhân. Họ sẽ trở nên
năng động hơn, và nâng cao hiệu quả công việc. Những mối quan hệ và kinh nghiệm có được
thông qua sự tiêu thụ, bán hàng ở thị trường nước ngoài có thể tạo cho công ty một lợi thế
cạnh tranh trong nước của mình. Nhờ đó mà công ty đạt được mục tiêu đặt ra, có được lợi thế
cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh doanh.
1.2.Phân định nội dung và hoàn thiện chiến lược marketing xuất khẩu của công ty
kinh doanh quốc tế.
1.2.1. Phân tích tình thế và thời cơ chiến lược marketing xuất khẩu
Các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường quốc tế luôn cần tìm ra các cơ hội kinh
doanh mới cũng như là luôn phải đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro nhằm giúp doanh
nghiệp luôn đạt được lợi nhuận cao. Do vậy, việc phân tích tình thế và thời cơ chiến lược
marketing xuất khẩu có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác lập chiến lược marketing
của doanh nghiệp.
Phân tích các cơ hội thị trường được tiến hành thông qua việc phân tích các yếu tố thuộc
môi trường vĩ mô như: nhân khẩu/kinh tế, công nghệ, chính trị/ luật pháp và văn hoá/ xã
hội…và những yếu tố quan trọng của môi trường vĩ mô như: khách hàng, đối thủ cạnh tranh,
kênh phân phối, người cung ứng có ảnh hưởng đến khả năng lợi nhuận của mình trên thị
trường đó.
Mỗi một đơn vị kinh doanh phải xây dựng một hệ thống marketing thông minh để theo
dõi những xu hướng và những bước tiến quan trọng. Đối với mỗi xu hướng hay bước phát
triển, Ban lãnh đạo cũng cần phải xác định những cơ hội và những mối đe doạ tiềm ẩn.
*) Cơ hội marketing là một lĩnh vực nhu cầu mà công ty có thể kiếm lời ở đó.Cơ hội có
thể liệt kê và phân loại theo mức độ hấp dẫn và xác suất thành công của nó. Xác suất thành
công của công ty phụ thuộc vào chỗ sức mạnh của công ty có tương xứng với những yêu cầu
then chốt để thành công không và có vượt lên trên được các đối thủ cạnh tranh không?Chỉ
riêng khả năng thì không tạo nên lợi thế cạnh tranh. Công ty có thành tích cao nhất sẽ là công
ty có thể tạo ra được giá trị lớn nhất cho khách hàng và duy trì được nó lâu dài.
Xác suất thành công
Mức cao thấp
độ
cao
hấp
dẫn thấp
Ma trận cơ hội
(1): cơ hội tốt nhất công ty nên có kế hoạch theo đuổi.
(2) và (3) : những cơ hội này công ty nên theo dõi và xem xét.
(4) : cơ hội quá nhỏ nên không cần xem xét.
*) Mối đe doạ là một thách thức do một xu hướng hay một bước phát triển bất lợi tạo ra sẽ
gây thiệt hại cho doanh số bán hàng hay lợi nhuận nếu không có biện pháp Marketing bảo vệ.
Mối đe doạ được phân loại theo mức độ nghiêm trọng và xác suất xuất hiện của nó.
Xác suất xuất hiện
Mức Cao thấp
độ cao
nghiêm
thấp
trọng
Ma trận đe doạ
1
2
3
4
1
2
3
4
(1): những mối đe doạ chủ yếu công ty cần có kế hoạch chuẩn bị đối phó với mọi
bất ngờ.
(2) và (3) : không đòi hỏi phải có kế hoạch đối phó với những bất ngờ nhưng cần
theo dõi cẩn thẩn.
(4) : mối đe doạ này có thể bỏ qua.
1.2.2.Hoạch định mục tiêu chiến lược
Chiến lược Marketing xuất khẩu có 4 mục tiêu cơ bản sau:
+ Lợi nhuận
+ Vị thế của công ty
+ An toàn trong kinh doanh
+ Đảm bảo tính nhân bản trong chiến lược Marketing
a) Lợi nhuận.
Lợi nhuận là một yếu tố quan trọng nhất không thể thiếu được trong bất kỳ một doanh
nghiệp kinh doanh nào. Nó đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình tái sản xuất
mở rộng, đảm bảo cho công ty có thể tiếp tục được quá trình mua thêm các trang thiết bị mới
và có khả năng đứng vững trên thị trường. Đối với nhà quản trị Marketing không chỉ quan
tâm đến lợi nhuận kinh doanh mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận, phải tính toán được
mức lợi nhuận cho từng mặt hàng, từng ngành hàng cụ thể. Và qua đó thấy được ngành hàng
nào mang lại lợi nhuận cao cho công ty và cũng xác định quá trình Marketing nào sẽ mang lại
kết quả tốt nhất.
b) Đảm bảo vị thế của công ty.
Xác định được tầm quan trọng của các yếu tố vô hình này trong sự ảnh hưởng tới hành vi
mua bán của khách hàng trên thị trường. Các công ty thường mong muốn xây dựng được
lòng tin đối với những người tiêu dùng cuối cùng trên thị trường nói chung và khách hàng
của công ty nói riêng. Tuy nhiên, đạt được mục tiêu này là điều không dễ dàng đối với công
ty và cũng không thể làm được trong một thời gian ngắn. Thế lực của công ty được thể hiện ở
doanh số bán, thị phần mà công ty chiếm được, khả năng tích tụ và tập trung của công ty, khả
năng liên doanh liên kết của công ty với các công ty khác. Nó đòi hỏi các công ty phải hết sức
nỗ lực, có những chủ trương hành động đúng đắn, có những chương trình Marketing cụ thể
và sự phân bố nguồn vốn hợp lý.
c) An toàn trong kinh doanh.
Trong quá trình cạnh tranh, các công ty luôn phải đối mặt với những tác động của các quy
luật kinh tế (cung, cầu, cạnh tranh), những rủi ro, thách thức có thể xảy ra là rất lớn. Do đó,
mục tiêu này không kém phần quan trọng đối với công ty. Và để xác định mục tiêu này đòi
hỏi:
+ Các yếu tố marketing-mix phải thích ứng và phù hợp với thực tế đặc biệt của thị
trường khi có sự thay đổi.
+ Tùy theo thế lực công ty, chọn vùng an toàn trong kinh doanh
+ Chấp nhận quy luật chung của môi trường kinh doanh
+ Chấp nhận mạo hiểm để khai thác và đạt tới tần suất lợi nhuận cao
d) Đảm bảo tính nhân bản cho công ty.
Khi triển khai chiến lược Marketing đòi hỏi công ty không được phá vỡ môi trường sinh
thái, không vi phạm tiêu chuẩn đạo đức của xã hội, dân tộc đồng thời tích cực giáo dục, nuôi
dưỡng thị trường theo chiều hướng văn minh và tính hiện đại trong tiêu dùng.
1.2.3. Hoạch định marketing mục tiêu
Muốn kinh doanh thành công trên thị trường nước ngoài thì trước khi xuất khẩu hàng hóa
sang thị trường khác, bất kỳ công ty kinh doanh quốc tế nào việc hoạch định Marketing mục
tiêu là vô cùng quan trọng. Hoàn thành tốt công việc này chính là đã tạo tiền đề hay là điểm
tựa để phát triển các bước tiếp theo. Việc hoạch định Marketing mục tiêu bao gồm các hoạt
động sau:
a) Lựa chọn thị trường mục tiêu.
Các công ty sản xuất – xuất nhập khẩu sẽ phải trả lời câu hỏi:
+ Tỷ lệ mà nó sẽ mở rộng hoạt động quốc tế là bao nhiêu?
+ Quốc gia nào sẽ xâm nhập?
+ Phân đoạn thị trường nào phải cung ứng?
+ Phân bổ nguồn lực và nỗ lực như thế nào cho tốt?
Dựa trên cơ sở nghiên cứu các yếu tố như tình thế – thời cơ chiến lược Marketing xuất
khẩu; các công ty kinh doanh quốc tế phải đưa ra những căn cứ với phương pháp lựa chọn
như sau:
* Những căn cứ lựa chọn :
- Về chính trị:
+ Thể chế chính trị của các quốc gia đó có thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu của
công ty không?
+ Sự ổn định hay bất ổn định về mặt chính trị của quốc gia đó.
- Về điều kiện tự nhiên.
- Về dân số.
- Các biến số kinh tế: GDP, GNP.
- Trình độ phát triển công nghệ kỹ thuật.
- Nhóm căn cứ vào quy chế tiền tệ :
+ Hình thức bảo hộ mậu dịch.
+ Tình hình tiền tệ, lạm phát, diễn biến của tỷ giá hối đoái.
- Căn cứ thương mại :
+ Quy mô và tính năng động thị trường.
+ Sự cạnh tranh quốc tế.
+ Tham gia các liên kết kinh tế.
- Các yếu tố văn hóa, thói quen tiêu dùng tôn giáo.
b) Xác định phương thức xuất khẩu.
Bao gồm: * Xuất khẩu gián tiếp.
* Hợp tác xuất khẩu.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Phương thức xuất khẩu được coi là phương thức xâm nhập thị trường quốc tế phổ biến và
đơn giản nhất từ trước tới nay. Xuất khẩu là phương thức đầu tiên được các công ty kinh
doanh quốc tế lựa chọn để tiến hành xâm nhập thị trường quốc tế.
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều cách thức khác nhau phụ thuộc vào số lượng và
loại hình trung gian thương mại.
* Xuất khẩu gián tiếp.
Là phương thức sử dụng các đại lý xuất khẩu hoặc các công ty thương mại quốc tế hoặc
bán hàng cho chi nhánh của các tổ chức nước ngoài đặt ở trong nước. Với việc sử dụng
phương thức xuất khẩu này, các công ty sẽ không phải đối mặt với nhiều rủi ro trong kinh
doanh, đặc biệt khi các tổ chức nước ngoài sở hữu hoàn toàn về hàng hóa thì rủi ro hầu như là
không có. Có thể xem đây là hình thức bán hàng trong nước.
Loại hình xuất khẩu này là phù hợp với các công ty mà mục tiêu mở rộng ra thị trường
nước ngoài và nguồn lực cho việc xâm nhập thị trường quốc tế là hạn chế. Và tất nhiên, lợi
nhuận thu về là không nhiều do công ty phải chia sẻ cho nhà xuất khẩu trung gian một khoản
phí khá lớn.
Tuy nhiên, việc sử dụng loại hình xuất khẩu này công ty sẽ gặp một số rủi ro cụ thể như :
Thứ nhất, công ty sẽ hạn chế vệ việc kiểm soát được mức độ thấp toàn bộ cách thức hàng
hóa và dịch vụ được bán ở thị trường nước ngoài, sản phẩm có thể được bán qua những kênh
phân phối không thích hợp với dịch vụ và nỗ lực hạn chế xúc tiến không hiệu quả, không
đúng với mục tiêu mong đợi của công ty. Rất có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín và hình ảnh
của công ty trên thị trường nước ngoài làm mất những cơ hội hiếm có để mở rộng thị trường.
Thứ hai, đó là khả năng xác lập mối liên hệ trực tiếp với thị trường quốc tế của công ty là
hạn chế. Thông tin thị trường giữa doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng là bị ngăn cách
một cách gián tiếp qua trung gian thương mại, thông tin có thể không còn chính xác hoặc sai
sự thật. Đồng thời, công ty sẽ rất khó khăn trong nắm bắt thị hiếu tiêu dùng luôn thay đổi ở
nước ngoài. Từ đó việc tạo ra sản phẩm nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách
hàng là khó khăn.
Thứ ba, khả năng bị mất thương hiệu là rất cao nếu công ty không tìm cách đăng ký và
bảo hộ nhãn hiệu độc quyền sản phẩm của công ty.
Việc công ty sử dụng kênh phân phối gián tiếp không hẳn đã là bước đầu tiên có hiệu quả
để tiến hành mở rộng thị trường quốc tế. Do đó, đòi hỏi công ty cân nhắc cẩn thận cho những
chiến lược lâu dài phát triển và tăng trưởng ở thị trường quốc tế.
* Hợp tác xuất khẩu.
Phương thức này thích hợp cho các công ty hạn chế nguồn lực hoặc khối lượng bán không
đủ lớn để thiết lập một bộ phận xuất khẩu mà lại muốn kiểm soát được thị trường quốc tế ở
mức độ nào đó. Trong trường hợp này công ty thỏa thuận với một công ty khác để phối hợp
các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến thương mại, vận tải, phân phối, tiêu thụ và các hoạt động
khác liên quan đến thị trường xuất khẩu. Việc sử dụng phương thức này cho phép công ty có
thể xâm nhập được thị trường quốc tế mà vẫn có thể kiểm soát được phần nào các hoạt động
phân phối bán hàng, xúc tiến thương mại nguồn thông tin thị trường là cập nhật hơn phương
thức xuất khẩu gián tiếp do có sự ràng buộc về trách nhiệm giữa hai bên được nêu rõ trong
hợp đồng thỏa thuận. Tất nhiên, lợi nhuận thu về lúc này vẫn chưa là tối đa hóa do bị phân
chia với đối tác.
* Xuất khẩu trực tiếp.
Khi mà khối lượng xuất khẩu đủ lớn và công ty muốn tập trung nguồn lực của mình
vào phát triển thị trường quốc tế thì việc thiết lập tổ chức (chi nhánh, bộ phận) xuất khẩu là
thích hợp. Tổ chức xuất khẩu này có thể bố trí ở trong nước hoặc ở thị trường nước ngoài.
Trong trườn