Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự phát triển của
mọi nền kinh tế. Đại hội IX của đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định “. nguồn
lực con người – Yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững”, “ con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển
đất nước trong thời kì CNH-HĐH ”. Đại hội Đảng lần thứ X cũng nhấn mạnh:
”phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với
giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực
đẩy nhanh CNH-HĐH và phát triển kinh tế tri thức”. Như vậy, thời đại nào cũng
cần đến nhân tài, hội nhập kinh tế thế giới càng sâu thì vấn đề phát triển nguồn
nhân lực càng trở nên bức thiết.
Thực hiện nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hội nhập với nền kinh tế khu
vực và thế giới là một xu th ế tất yếu của đất nước. Trong bối cảnh phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ, ngày càng nhiều các công nghệ hiện đại, các
thiết bị tiên tiến và phương pháp quản lí tiến bộ được đưa vào áp dụng, không chỉ
trong các doanh nghiệp nói chung mà còn cả trong các ngân hàng thương
mại(NHTM) nói riêng. Tuy nhiên, không có một kỹ thuật hay phương pháp quản
lý nào có th ể đem lại hiệu quả nếu không đủ những con người có đủ năng lực để
quản lý và thực thi nó. Nói cách khác, muốn tồn tại và phát triển trong bối cảnh
cạnh tranh gay gắt khi tham gia hội nhập cần phải khai thác triệt để và tận dụng
nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó, nguồn lực con người đóng vai trò quy ết
định. Càng quantrongj hơn khi đối với các NHTM nước ta có tiềm lực về tài
chính và cơ sở vật chất còn thua kém so với các NHTM nước ngoài.
Làm thế nào để phát triển nguồn nhân lực đảm bảo chất lượng đáp ứng
được yêu cầu đổi mới, Theo kịp và làm chủ được quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế đang là vấn đề cấp bách có ý nghĩa sống còn không chỉ đối với toàn h ệ thống
ngân hàng mà còn là của từng NHTM nói riêng.
91 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2325 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong Sở giao dịch ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Một số kiến nghị hoàn
thiện chính sách đào tạo và
phát triển nguồn nhân lực
của SGD NHNNo&PTNT
Việt Nam
2
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO VÀ
PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI.
1.1.Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM:
1.1.1.Khái niệm, chức năng và vai trò của NHTM trong nên kinh tế
thị trường:
*. Khái niệm ngân hàng thương mại:
Hoạt động của các NHTM rất phong phú và đa dạng, các nghiệp vụ lại
phức tạp và luôn thay đổi theo sự thay đổi của nền kinh tế. Do tập quán và luật
pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng khác nhau nên quan niệm về NHTM cũng
không có sự thống nhất song có thể hình dung NHTM là một trong những ngành
dịch vụ lâu đời nhất, là tổ chức kinh doanh tiền tệ thực hiện đồng thời cả ba
nhệm vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán trung gian cho các khách
hàng. Tầm quan trọng của NHTM có thể được minh họa một cách chi tiết qua
các chức năng cơ bản của nó(chức năng tạo tiền, chức năng thanh toán, chức
năng bảo quản và cất trữ,…)
Theo Luật các tổ chức Tín dụng của Việt Nam(được sửa đổi bổ sung năm
2004) thì “ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan.Theo tính chất và mục
tiêu hoạt động, các loại ngân hàng gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng phát
triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàngchính sách, ngân hàng hợp tác và các loại
hình ngân hàng khác”. [Luật các tổ chức Tín dụng].
“Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán” [Luật các tổ chức Tín dụng].
Nếu xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ
mà chúng cung cấp thì NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ
thanh toán, và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế.
*.Vai trò của NHTM trong nền kinh tế:
3
Về lý thuyết, các NHTM là tổ chức nhận tiền gửi và cho vay,nhưng trên
thực tế ngân hàng thực hiện nhiều nghiệp vụ để có thể duy trì khả năng cạnh
tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có những vai trò
cơ bản sau:
- Vai trò trung gian: Chuyển các khoản tiền tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia
đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần
khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác.
- Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàngthực hiện thanh toán cho việc
mua hàng hóa và dịch vụ(như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng
lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy và tiền đúc).
- Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách
hàngmất khả năng thanh toán(chẳng hạn phát hành thư tín dụng)
- Vai trò đại lý: Thay mặt khách hàngquản lý và bảo vệ tài sản của họ,
phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán(thường được thực hiện tại phòng ủy thác).
- Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của
Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã
hội
1.1.2. Nguồn nhân lực NHTM:
1.1.2.1. Khái niệm nguồn nhân lực ngân hàng thương mại:
*. Khái niệm nguồn nhân lực:
Nói một cách đơn giản, nhân lực được hiểu bao gồm thể lực và trí lực. Bất
cứ một tổ chức nào cũng được cấu thành bởi các thành viên là những con người
khác nhau. Đó là một tập thể các cá nhân có vai trò khác nhau và được liên kết
với nhau theo một mục tiêu chung nhất định.
Việc xem xét yếu tố con người với tư cách là nguồn lực cho sự phát triển
kinh tế - xã hội đã hình thành khái niệm mới về nguồn nhân lực. Hiểu đúng và
đầy đủ về nguồn nhân lực thì tùy theo cách tiếp cận khác nhau sẽ cho ta nhiều
khái niệm khác nhau. Với mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đã đặt ra, chuyên đề
tập trung nghiên cứu trên 2 góc độ:
4
- Trên phương diện tăng trưởng kinh tế, yếu tố con người được đề cập đến
với tư cách là là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất hàng hóa,
dịch vụ. Ở đây, con người được xem xét từ góc độ là lực lượng lao động cơ bản
nhất của xã hội. Việc cung cấp đầy đủ và kịp thời lực lượng lao động theo yêu
cầu của nền kinh tế là vấn đề quan trọng nhất đảm bảo tốc độ tăng trưởng sản
xuất và dịch vụ.
- Trên phương diện khía cạnh về vốn: Con người được xem xét trước hết
như một yếu tố của quá trình sản xuất, một phương diện để phát triển kinh tế - xã
hội. Ngoài ra, lí luận về vốn con người còn xem xét con người từ quan điểm nhu
cầu về các nguồn cho sự phát triển kinh tế. Đầu tư cho con người được phân tích
với tính chất là sự “tư bản hóa các phúc lợi” tương tự như đầu tư vào các nguồn
vật chất có tính đến tổng hiệu quả các đầu tư này hoặc thu nhập mà con người và
xã hội thu được từ các nhà đầu tư đóNguồn nhân lực là nguồn lực về con người
và được nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Trước hết, với tư cách là nguồn cung
cấp sức lao động cho xã. Cách tiếp cận này đang được áp dụng và phổ biến ở hầu
hết các nước hiện nay.
Theo cách nghiên cứu trên, ngân hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân lực
là toàn bộ vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp..) mà mỗi các nhân sở
hữu. Nguồn nhân lực được xem như một nguồn vốn bên cạnh những nguồn vốn
vật chất khác như vốn tiền, vốn công nghệ, tài nguyên thiên nhiên…đầu tư cho
con người, giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và được coi là cơ sở vững
chắc cho sự phát triển bền vững.
Cũng trên cơ sở nghiên cứu trên, Liên hiệp quốc(UNO) đưa ra khái niệm
nguồn nhân lưc là tất cả các kiến thức, kỹ năng, năng lực của con người có quan
hệ tới sự phát triển của đất nước. Đây là yếu tố quan trọng nhất trong kết cấu hạ
tầng xã hội – kinh tế.
Trong chương trình KH – CN cấp nhà nước, “con người Việt Nam – mục
tiêu và động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội”, Mã số KX – 07 thì đưa ra
khái niệm: Nguồn nhân lực được hiểu là số dân và trách nhiệm con người, bao
gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất, thái độ
và phong cách làm việc.
Trong bài phát biểu khi gặp các nhà doanh nghiệp và các nhà khoa học
công nghệ các tỉnh, thành phố phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải nhấn mạnh: “
5
Nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ, tinh thần gắn với truyền
thống của dân tộc ta.
Từ những quan niệm nêu trên, rút ra: Nguồn nhân lực không chỉ đơn
thuần là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà đó là cả một tập hợp đa phức gồm
nhiều yếu tố như trí tuệ, sức lực, kĩ năng, phong cách nghề nghiệp… gắn với sự
tác động của môi trường đối với lực lượng lao động đó.
*. Nguồn nhân lực NHTM :
Theo cách tiếp cận trên thì nguồn nhân lực của ngân hàng thương mại là
tất cả vốn người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…của tất cả những
thành viên trong NHTM, bao gồm cả những cán bộ quản lý của Ngân hàng và
các cán bộ, nhân viên thực thi các nghiệp vụ Ngân hàng, cũng như những nhân
viên ở các bộ phận khác trong NHTM: lễ tân, phục vụ…
1.1.2.2. Đặc điểm nguồn nhân lực NHTM:
Dựa trên đặc thù ngành kinh doanh hàng hóa đặc biệt là tiền tệ và dịch vụ
tài chính, nguồn nhân lực của NHTM có đặc điểm chung như sau:
- Về mặt bằng kiến thức: do hoạt động NHTM là cấp tín dụng và đầu tư
cho nền kinh tế nên đòi hỏi cán bộ NHTM phải am hiểu và có kiến thức tổng hợp
cuarnhieeuf chuyên ngành sản xuất kinh doanh, nhiều loại đặc thù quản lý.
- Về năng lực: Nhạy bén, sáng tạo, năng động do xuất phát từ đặc điểm
của kinh doanh hàng hóa đặc thù là tiền tệ.
- Về phong cách: NHTM thực hiện chức năng”đi vay để cho vay”kinh
doanh dựa trên sự “tín nhiệm” nên người cán bộ NHTM cần phải có phong cách
chững chạc, tự tin, quyết đoán, đạo đức tốt, tạo được niềm tin tưởng cho khách
hàng ở cả góc độ là người gửi tiền và các nhà đầu tư vay vốn.
- Dựa trên tiêu thức phân chia theo ngạch quản lý và theo chuyên môn,
có thể xác định đặc điểm về nguồn nhân lực NHTM theo hai nhóm chính sau:
a. Cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ: Đội ngũ cán bộ quản lý kinh
doanh tiền tệ gồm có hai bộ phân chủ yếu:
- Bộ phận đầu não(Trung tâm điều hành, Trụ sở chính): đây là bộ phận có
ảnh hưởng quyết định đến phương hướng hoạt động của NHTM.
6
- Bộ phân chỉ đạo cơ sở: là bộ phận tác động trực tiếp đến chất lượng kinh
doanh tiền tệ của một Ngân hàng, một chi nhánh Ngân hàng hoặc một tổ chức tín
dụng.
Lực lượng cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ bao gồm những người đảm nhận cá
chức danh:
+ Chủ tịch Hội đồng quản trị: thành viên HĐQT;
+ Tổng Giám đốc(Giám đốc) và các Phó tổng giám đốc(Phó giam đốc)
+ Trưởng, phó các phòng(ban) nghiệp vụ thuộc cơ quan điều hành(cấp trung
ương và trung gian);
Yêu cầu về năng lực chuyên môn:
Tùy thuộc vào từng loại hình Tổ chức tín dung, từng vị trí then chốt trong
các bộ phận nghiệp vụ của một Tổ chức tín dụng mà cán bộ nắm giữ những vị trí
này phải đáp ứng những yêu cầu nhất định, những yêu cầu chung nhất mà một
cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ cần có.
Loại nhân lực này, với đặc trưng cơ bản nhất đòi hỏi họ là phải nắm bắt
tốt được thời cơ để tổ chức các kế hoạch kinh doanh tiền tệ sao ho có hiệu quả
nhất cho mỗi tổ chức tín dụng và cho sự phát triển kinh tế chung của đất nước.
Lực lượng cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ là những người quyết định
chất lượng hoạt động của một Ngân hàng, một tổ chức tín dụng, nên sự thành đạt
của mỗi Ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng trước hết trông chờ vào năng lực
chuyên môn của đội ngũ cán bộ này.
b. Cán bộ nhân viên nghiệp vụ.
Nghiệp vụ chuyên môn của đội ngũ nhân viên nghiệp vụ mang một số
đặc điểm về cơ cấu sau:Nghề nghiệp đa dạng
- Số lượng nghề nghiệp bố trí chủ yếu ở các lĩnh vực kinh doanh trực tiếp.
Đội ngũ nhân viên nghiệp vụ, tuy không phải là lực lượng lãnh đạo và
quyết định đến sự phát triển của mỗi Ngân hàng, tổ chức tín dụng, nhưng lại
chiếm số đông tuyệt đối trong hệ thống Ngân hàng nên họ chính là động lực của
sự phát triển
Cùng với đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tiền tệ, lực lượng cán bộ làm
công tác nghiệp vụ là những người đã góp phần làm nên sự nghiệp đổi mới
ngành ngân hàng và thúc đẩy tiến trình đổi mới nền kinh tế chung của đất nước.
7
1.1.2.3.Các loại nhân lực của NHTM:
Trong hoạt động của NHTM cũng như các hoạt động của các tổ chức
khác, để thực hiện thuận tiện cho các công tác về nguồn nhân lực cần phân chia
thành các loại nhân lực theo các tiêu thức khác nhau. Theo tầm quan trọng của
các cương vị được giao cho cá nhân trên cơ sở sử dụng cách phân cấp quản trị,
nhân lực NHTM được chia thành 4 loại.
*. Cán bộ lãnh đạo
Là cấp quản trị cao nhất, là người đứng đầu, là người chỉ huy, có quyền
quyết định chiến lược, định hướng chung cho hoạt động của NHTM, xây dựng và
quản lý các mục tiêu định hướng ngắn hạn và dài hạn cho NHTM.
Về mặt nhân lực: Đưa ra các chương trình phát triển nhân lực: các chíh
sách để sử dụng nhân lực tốt nhất trong các chính sách bao gồm các chính sách
về lương bổng, chính sách về thưởng , phat, kiểm soát hoạt động của nhân viên
cấp dưới, giúp đỡ nhân viên cấp dưới khi cần thiết.
Với vị trí cao nhất, với nhiệm vụ to lớn và nặng nề như trên, những người
lãnh đạo NHTM cần đáp ứng những đòi hỏi nhất định trên nhiều phương diên:
Năng lực nhận thức, năng lực ra quyết đinh, năng lức tổ chức quyết định điều
hành, có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm và thâm niên công tác, có phẩm
chất đạo đức tốt.
*.Cán bộ quản trị cấp trung gian
Là những người phụ trách, đứng đầu các bộ phận, các nhóm (phòng, ban,
sở…); trực tiếp chỉ đạo, điều hành, trực tiếp tiếp xúc với nhân viên hàng ngày,
giao công việc cho nhân viên, kiểm tra, đôn đốc động viên nhân viên làm việc
thực hiện nhiệm vụ được ban lãnh đạo giao phó…
Cấp quản lý này có vai trò rất lớn trong quan hệ điều hành, duy trì không
khì làm việc thuận lợi, bố trí công việc hợp lý, kèm cặp nhân viên, chuyển giao
kinh nghiệm cho nhân viên.
Công việc chính của họ phụ trách một phạm vi công việc tương đối lớn và
thường không tách khỏi công việc chuyên môn. Những công việc chính thường
bao gồm: Từ việc ra quyết định chiến thuật và tác nghiệp, xây dựng và trực tiếp
chỉ đạo thực hiện các mục tiêu ngắn hạn, các mục tiêu cụ thể. Tổ chức tập hơp
8
mọi thành viên trong đơn vị triển khai thực hiện và hoàn thành các ục tiêu, các
chương trình, các công việc được phân công.
Với vị trí và nhiệm vụ như vậy, cán bộ quản trị cấp trung gian này cũng
cần đạt một số tiêu chuẩn: Có năng lực chuyên môn, có năng lực tổ chức, quản lý
điều hành, có năng lực ra quyết định, có năng lực nhận thức, có kinh nghiệm,
phẩm chất đạo đức.
Nhìn chung khó có thể tách biệt các tiêu chuẩn riêng biệt cho nhà lãnh đạo
và các nhà quản trị cấp trung gian, nhưng luôn có thể nhận định: người lãnh đạo
và những nhà quản trị cấp trung gian đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
NHTM, giống như hệ thần kinh của con người, có nhiệm vụ cảm nhận được các
phản ứng từ bên ngoài, thấy được và nghĩ ra được những giải pháp tối ưu để điều
khiển các bộ phận khác trong tổ chức, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của
NHTM.
Như vậy, đòi hỏi họ phải:
Là những người có kinh nghiệm, có ý chí, có khả năng thực hiện và hướng
dẫn, động viên người khác cùng hoàn thành nhiệm vụ, có bản lĩnh, có hoài bão
để hoàn thành sứ mạng của mình, bất chấp mọi khó khăn gian khổ, phải biết làm
cho thuộc cấp vừa tuân phục, vừa mến mộ với tư cách tấm gương cho mọi người
học tập noi theo, biết làm cho mọi người hợp tác với nhau dể làm việc, biết nhận
ra, biết khai thác, sử dụng khả năng của cấp dưới, giúp họ ý thức trách nhiệm, để
cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ được giao; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách
nhiệm.
*. Chuyên gia:
Bao gồm tất cả những người được các nhà lãnh đạo sử dụng với tư cách
làm tham mưu, cố vấn, là người đưa ra ý kiến để các cấp lãnh đạo và quản trị với
nghĩa là cấp quản trị trực tuyến lựa chọn và ra quyết định. Những chuyên gia này
là những người có nhiều kinh nghiệm, kiến thức về một số lĩnh vực chuyên môn
náo đó.
Các chuyên gia này rất cần cho các cấp quản trị về việc tư vấn cho các
cappas quản trị về các chiến lược lâu dài, cũng như công việc thực tế hàng ngày.
Họ có thể giúp huấn luyện nhân viên, chuyển giao kinh nghiệm cho nhân viên.
9
Do vậy, đòi hỏi phải đạt một số tiêu chuẩn: có năng lực chuyên môn, kinh
nghiệm và thâm niên trong lĩnh vực chuyên gia, có năng lực nhận thức, có tầm
hiểu biết rộng, có phẩm chất đạo đức
*. Nhân viên:
Là những người thực hiện các công việc cụ thể theo kế hoạch đề ra tuân
thủ mệnh lệnh của các cấp quản trị. Công việc của họ là hoàn thành các phần
việc được giao theo khả năng và kiến thức sẵn có, phối kết hợp với các viên chức
khác để hoàn thành công việc cụ thể.
Loại nhân lực có vai trò quan trọng ở NHTM. Bởi vì, quản trị là hoàn
thành công việc qua người khác. Nghĩa là, lãnh đạo dù có tài giỏi, song nếu
không có một đội ngũ nhân lực giỏi thì cũng không thể hoàn thành được nhiệm
vụ của mình.
Măt khác, so với ba loại nhân lực trên, loại nhân lực này là lực lượng đông
đảo nhất, chiếm đại bộ phận trong lực lượng lao động của NHTM. Họ là những
người trực tiếp thực hiện và giải quyết mọi công việc của NHTM; là người trực
tiếp tiếp xúc với môi trường hoạt động cụ thể. Do đó mục tiêu của NHTM có đạt
được hay không, uy tín cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào lực lượng lao động
này.
Tiêu chuẩn của loại nhân lực này, không đòi hỏi cao như ba loại trên,
nhưng cũng phải đảm bảo: có trình độ năng lực chuyên môn nghiệp vụ; tính cách
cần thiết phù hợp với công việc; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong làm việc; ý
thức cầu tiến; phong cách ứng xử; khả năng giao tiếp; phẩm chất đạo đức; các
tiêu chuẩn khác phù hợp từng vị trí lĩnh vực công tác.
1.1.3. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM
1.1.3.1.Khái niệm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định và
chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận được một số
công việc nhất định.Đào tạo gồm đào tạo kiến thức phổ thông và đào tạo kiến
thức chuyên nghiệp.
Như vậy có thể xem đào tạo nguồn nhân lực là các hoạt động nhằm giúp
người lao động có thể thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của mình.
10
Phát triển nguồn nhân lực( theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học
tập có tổ chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm
tạo ra sự thay đổi hành vi nghề nghiệp của người lao động.
Trước hết, phát triển nguồn nhân lực chính là toàn bộ những hoạt động
học tập được tổ chức bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người lao
động. Các hoạt động đó có thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày thậm chí
đến vài năm, tuỳ vào mục tiêu học tập; và nhằm tạo ra sự thay đổi hành vi nghề
nghiệp cho người lao động theo hướng đi lên, tức là nhằm nâng cao khả năng và
trình độ nghề nghiệp của họ. Như vậy, xét về nội dung, phát triển nguồn nhân lực
bao gồm ba hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển.
- Giáo dục: được hiểu là các hoạt động học tập để chuẩn bị cho con
người bước vào một nghề nghiệp hoặc chuyển sang một nghề mới thích hợp hơn
trong tương lai.
- Đào tạo: (hay còn gọi là đào tạo kỹ năng): được hiểu là các hoạt động
học tập nhằm giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức
năng, nhiệm vụ của mình. Đó chính là quá trình học tập làm cho nguời lao động
nắm vững hơn về công việc của mình, là những hoạt động học tập để nâng cao
trình độ, kỹ năng của người lao động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả
hơn.
- Phát triển: là các hoạt động học tập vươn ra khỏi phạm vi công việc
trước mắt của người lao động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên
cơ sở những định hướng tương lai của tổ chức.
Như vậy có thể thấy cả đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đều là quá
trình trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết cho nguồn nhân lực của tổ chức.
Song đào tạo và phát triển là không giống nhau, chúng khác nhau ở định hướng,
phạm vi, thời gian và mục đích. Cụ thể, đào tạo định hướng vào hiện tại, tập
trung nâng cao kĩ năng cần thiết, khắc phục những thiếu hụt về mặt kiến thức
giúp các cá nhân thực hiện tốt công việc hiện tại của mình. Đào tạo thực hiện ở
phạm vi cá nhân và trong thời gian ngắn. Phát triển nguồn nhân lực lại chú trọng
vào các công việc tương lai của tổ chức, nó giúp các cá nhân trang bị sẵn những
kiến thức, kỹ năng mới cần thiết trong việc thăng tiến lên chức vụ mới. Phát triển
thực hiện ở cả phạm vi cá nhân và tổ chức, và được tiến hành trong dài hạn Hai
hoạt động này phải tiến hành đồng thời đối với mỗi cá nhân trong tổ chức để khai
11
thác hết hiệu quả của hoạt động này và xây dựng một đội ngũ NNL chất lượng
cao, ổn định cho tổ chức. Hiện nay vai trò và vị trí của hoạt động này ngày càng
quan trọng hơn trong mọi tổ chức.
*. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NHTM: Dựa vào khái niệm
chung về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong tổ chức. Đối với một ngân
hàng thương mại, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là nhóm chức năng chú
trọng đến việc nâng cao năng lực của cán bộ nhân viên, bảo đảm cho cán bộ nhân
viên trong ngân hàng có các kỹ năng, trình độ chuyên môn cần thiết để hoàn
thành tốt những công việc được giao và tạo điều kiện cho đội ngũ nhân sự phát
triển được tối đa các năng lực cá nhân. Các ngân hàng áp dụng chương trình
hướng nghiệp và đào tạo cho nhân viên mới nhằm xác định năng lực thực tế của
nhân viên và giúp nhân viên làm quen với những công việc của mình. Đồng thời,
các NHTM cũng thường lập các kế hoạch đào tạo, huyến luyện và đào tạo lại
nhân viên mỗi khi có sự thay đổi về nhu cầu nhiệm vụ hoặc quy trình công nghệ,
kỹ thuật. Nhóm chức năng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho NHTM
thường thực hiện các hoạt động như : h