Trong giai đoạn hiện nay, hòa chung với sự đổi mới sâu sắc toàn diện của đất
nước, của cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước. Những thành tựu đó chính là nhờ những đóng góp vô cùng to lớn của ngành
xây dựng cơ bản nước nhà.
Mang đặc điểm nổi bật của ngành xây dựng cơ bản, xây lắp Điện đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, thời gian thi công kéo dài nên vấn đề đặt ra là làm sao phải quản lý vốn
tốt, có hiệu quả đồng thời khắc phục được tình trạng thất thoát lãng phí trong quá
trình sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
Ra đời và phát triển cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nền sản xuất hàng
hóa, hạch toán là một phạm trù kinh tế khách quan, một công cụ quản lý có hiệu quả
không thể thiếu được trong hệ thống quản lý kinh tế trên toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Điều đó tất yếu phải đòi hỏi công tác kế toán có sự đổi mới tương ứng phù hợp
với nhu cầu quản lý mới với yêu cầu của nền kinh tế thị trường là lấy thu bù chi để
hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi. Để đạt được yêu cầu đó, các doanh nghiệp luôn
xác định hạch toán chi phí và tính giá thành là khâu trung tâm của công tác kế toán,
do đó đòi hỏi công tác kế toán phải tổ chức sao cho khoa học, kịp thời, đúng đối
tượng theo chế độ quy định nhằm cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết
đồng thời đưa ra các biện pháp, phương hướng hoàn thiện để nâng cao vai trò quản lý
chi phí và tính giá thành, thực hiện tốt chức năng “ là công cụ phục vụ đắc lực cho
quản lý ” của kế toán. Chi phí được tập hợp một cách chính xác kết hợp với việc tính
đầy đủ giá thành sản phẩm sẽ làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế tài chính trong
doanh nghiệp, góp phần tích cực vào việc sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, qua thời gian thực tập tại Xí
nghiệp xây lắp Điện – Công ty Điện Lực I, được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
Trần Văn Thuận và các cán bộ Phòng Tài vụ của xí nghiệp, em đã đi sâu vào nghiên
cứu công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm và chọn đề tài:
“Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp với
việc nâng cao hiệu quả quản trị chi phí tại xí nghiệp xây lắp Điện – Công Ty Điện
Lực I”
NỘI DUNG LUẬN VĂN GỒM 3 PHẦN:
Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp
Phần 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí
nghiệp xây lắp Điện- Công ty Điện lực I.
Phần 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc
nâng cao quản trị chi phí tại Xí nghiệp xây lắp Điện.
95 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2158 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp với việc nâng cao hiệu quả quản trị chi phí tại xí nghiệp xây lắp điện của công ty điện lực i, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Hoàn thiện kế toán chi phí sản
xuất và tính giá thành sản phẩm
xây lắp với việc nâng cao hiệu quả
quản trị chi phí tại xí nghiệp xây
lắp Điện – Công Ty Điện Lực I
LỜI NÓI ĐẦU
Trong giai đoạn hiện nay, hòa chung với sự đổi mới sâu sắc toàn diện của đất
nước, của cơ chế quản lý kinh tế, hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước. Những thành tựu đó chính là nhờ những đóng góp vô cùng to lớn của ngành
xây dựng cơ bản nước nhà.
Mang đặc điểm nổi bật của ngành xây dựng cơ bản, xây lắp Điện đòi hỏi vốn
đầu tư lớn, thời gian thi công kéo dài nên vấn đề đặt ra là làm sao phải quản lý vốn
tốt, có hiệu quả đồng thời khắc phục được tình trạng thất thoát lãng phí trong quá
trình sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh cho doanh
nghiệp.
Ra đời và phát triển cùng với sự xuất hiện và tồn tại của nền sản xuất hàng
hóa, hạch toán là một phạm trù kinh tế khách quan, một công cụ quản lý có hiệu quả
không thể thiếu được trong hệ thống quản lý kinh tế trên toàn bộ nền kinh tế quốc
dân. Điều đó tất yếu phải đòi hỏi công tác kế toán có sự đổi mới tương ứng phù hợp
với nhu cầu quản lý mới với yêu cầu của nền kinh tế thị trường là lấy thu bù chi để
hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi. Để đạt được yêu cầu đó, các doanh nghiệp luôn
xác định hạch toán chi phí và tính giá thành là khâu trung tâm của công tác kế toán,
do đó đòi hỏi công tác kế toán phải tổ chức sao cho khoa học, kịp thời, đúng đối
tượng theo chế độ quy định nhằm cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết
đồng thời đưa ra các biện pháp, phương hướng hoàn thiện để nâng cao vai trò quản lý
chi phí và tính giá thành, thực hiện tốt chức năng “ là công cụ phục vụ đắc lực cho
quản lý ” của kế toán. Chi phí được tập hợp một cách chính xác kết hợp với việc tính
đầy đủ giá thành sản phẩm sẽ làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế tài chính trong
doanh nghiệp, góp phần tích cực vào việc sử dụng hiệu quả các nguồn đầu tư, đảm
bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, qua thời gian thực tập tại Xí
nghiệp xây lắp Điện – Công ty Điện Lực I, được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo
Trần Văn Thuận và các cán bộ Phòng Tài vụ của xí nghiệp, em đã đi sâu vào nghiên
cứu công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm và chọn đề tài:
“Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp với
việc nâng cao hiệu quả quản trị chi phí tại xí nghiệp xây lắp Điện – Công Ty Điện
Lực I”
NỘI DUNG LUẬN VĂN GỒM 3 PHẦN:
Phần 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành
sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp
Phần 2: Thực trạng kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Xí
nghiệp xây lắp Điện- Công ty Điện lực I.
Phần 3: Hoàn thiện kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm với việc
nâng cao quản trị chi phí tại Xí nghiệp xây lắp Điện.
PHẦN 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT
VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP XÂY
LẮP
1.1 ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XÂY LẮP CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN KẾ
TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM
Xây dựng cơ bản là một trong những ngành sản xuất vật chất quan trọng mang
tính chất công nghiệp, có chức năng xây dựng và lắp đặt, tái sản xuất tài sản cố định
tạo ra cơ sở vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tăng tiềm lực kinh tế, quốc phòng cho
đất nước. Chính vì vậy, một bộ phận không nhỏ của thu nhập quốc dân nói chung,
của tích lũy nói riêng cùng với vốn đầu tư, tài chính hỗ trợ của nước ngoài được sử
dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản các doanh nghiệp xây lắp giữ một vai
trò quan trọng. Cũng như các ngành sản xuất khác, quá trình sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp xây lắp thực chất là quá trình biến đổi đối tượng lao động thành sản
phẩm. Tuy nhiên, xây dựng cơ bản lại có những đặc điểm kinh tế kĩ thuật đặc trưng
khác hẳn các ngành khác thể hiện rõ nét ở hoạt động kinh doanh và sản phẩm của
ngành đó là:
+ Thông thường, hoạt động xây lắp được thực hiện thông qua hình thức nhận
thầu. Vì vậy các doanh nghiệp muốn thắng thầu và kinh doanh có lãi thì phải xây
dựng được một giá đấu thầu hợp lý dựa trên các định mức, đơn giá xây lắp cơ bản,
giá thị trường và khả năng của doanh nghiệp.
+ Sản phẩm xây lắp được tạo ra bởi công nghệ xây lắp, đó là các công trình,
hạng mục công trình, vật kiến trúc... mang tính tổng hợp về mặt kinh tế, chính trị, kĩ
thuật có quy mô lớn, kết cấu phức tạp, mang tính đơn chiếc, thời gian thi công xây
lắp rất dài, địa điểm thi công phân tán... vừa mang tính đa dạng lại vừa mang tính độc
lập. Mỗi sản phẩm lại có một phương thức kĩ thuật thi công riêng biệt, gồm những
giai đoạn nhất định dẫn đến giá trị từng công trình khác nhau. Do đó, việc tổ chức
quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp nhất thiết phải được lập dự toán thiết kế, dự
toán thi công. Trong suốt quá trình xây lắp phải lấy giá dự toán làm thước đo cả về
mặt giá trị và kĩ thuật.
+ Chất lượng công trình xây lắp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như khảo sát,
thiết kế, thi công... đặc biệt là trong khâu thi công, mà thời gian sử dụng của một sản
phẩm lại rất lâu dài vì vậy trong quá trình xây lắp phải tổ chức quản lý và hạch toán
sao cho có thể giám sát chặt chẽ chất lượng công trình đảm bảo đúng dự toán, thiết
kế.
+ Sản phẩm xây lắp hoàn thành không nhập kho mà tiêu thụ ngay theo giá dự
toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư từ trước (giá đấu thầu) nên tính chất hàng hóa
của sản phẩm thể hiện không rõ. Điều đó có nghĩa là tác động của yếu tố thị trường
thể hiện không rõ do giá cả được quy định trước khi tiến hành xây dựng, thi công
thông qua hợp đồng giao nhận thầu.
+ Sản phẩm xây lắp mang tính cố định, nơi sản xuất cũng là nơi sau này khi
sản phẩm hoàn thành sẽ đưa vào sử dụng, nó được tạo bởi vật liệu xây lắp, máy móc
thiết bị thi công xây lắp và lao động theo từng địa điểm thi công, chịu ảnh hưởng của
các nhân tố khách quan như thời tiết... nên rất dễ dẫn đến tình trạng mất mát, hao hụt,
lãng phí vật tư, hư hỏng tài sản làm tăng chi phí sản xuất dẫn đến khó khăn trong
công tác quản lý, sử dụng và hạch toán chi phí.
+ Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp ở nước ta hiện nay phổ
biến theo phương thức khoán gọn các công trình, hạng mục công trình hay khối
lượng công việc cho các đơn vị trong nội bộ doanh nghiệp (xí nghiệp, tổ, đội sản
xuất). Trong giá khoán gọn không chỉ có tiền lương mà còn có đủ chi phí về vật liệu,
công cụ dụng cụ thi công, chi phí chung của bộ phận nhận khoán.
+ Công trình phải được thực hiện bảo hành trong một thời gian nhất định đã
được thỏa thuận từ trước, thông thường chủ đầu tư sẽ giữ lại 5% giá trị công trình để
ràng buộc trách nhiệm của các đơn vị thi công.
1.2 BẢN CHẤT VÀ NỘI DUNG KINH TẾ CỦA CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ GIÁ THÀNH
SẢN PHẨM XÂY LẮP
1.2.1 Chi phí xây lắp
1.2.1.1 Khái niệm chi phí xây lắp
Để sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải có đầy đủ 3
yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, đó là:
Lao động của con người
Đối tượng lao động
Tư liệu lao động.
Ba yếu tố này kết hợp với nhau trong quá trình sản xuất sẽ tạo ra những sản
phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của con người. Lượng tiêu hao được biểu hiện bằng
tiền của các yếu tố trên để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ được gọi là chi phí.
Trong các đơn vị xây lắp, chi phí sản xuất là toàn bộ chi phí về lao động sống
của con người và lao động vật hoá phát sinh trong quá trình sản xuất và cấu thành
nên giá thành sản phẩm xây lắp. Mọi chi phí đều được biểu hiện bằng tiền, trong đó
chi phí về tiền công, tiền trích BHXH, BHYT và KPCĐ là biểu hiện bằng tiền của
hao phí lao động sống, còn chi phí khấu hao tài sản cố định, nguyên liệu, vật liệu…
là biểu hiện bằng tiền của lao động vật hoá.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp kinh doanh xây lắp phát sinh thường xuyên
trong suốt quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Nhưng để phục vụ cho quá
trình quản lý và hạch toán kinh doanh chi phí phải được tính toán tập hợp theo từng
thời kỳ: hàng tháng, hàng quý, hàng năm…phù hợp với kỳ báo cáo. Trong đó, chỉ
những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi
phí sản xuất trong kỳ.
Trong các doanh nghiệp nói chung và trong các doanh nghiệp kinh doanh xây
lắp nói riêng có rất nhiều các khoản chi phí khác nhau, do đó việc quản lý chi phí sản
xuất không thể chỉ căn cứ vào số liệu tổng hợp mà phải theo dõi, tập hợp riêng số liệu
của từng loại chi phí, từng nhóm chi phí. Vì vậy, việc tiến hành phân loại chi phí là
rất cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp.
1.2.1.2 Phân loại chi phí xây lắp
Chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp bao gồm nhiều loại, có nội dung
kinh tế khác nhau, công dụng khác nhau mà yêu cầu quản lý đối với từng loại cũng
khác nhau. Để lập kế hoạch và tính chính xác giá thành, khống chế và thống nhất các
loại chi phí, nhằm nghiên cứu các yếu tố phát sinh trong quá trình hình thành giá
thành sản phẩm, yêu cầu khách quan đặt ra là: phải phân loại chi phí thành từng
nhóm riêng theo từng tiêu thức nhất định. Trên cơ sở đó, phân tích tình hình biến
động của từng loại chi phí, tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động đó để
đưa ra những biện pháp quản lý hữu hiệu nhất.
Phân loại chi phí sản xuất là việc sắp xếp những chi phí sản xuất vào từng
loại, từng nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Việc hạch toán chi phí
theo từng tiêu thức sẽ nâng cao tính chi tiết của thông tin, là cơ sở cho việc phấn đấu
hạ chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng và tăng cường hạch toán kế toán trong các đơn
vị xây lắp.
Thông thường, khi phân loại chi phí người ta thường dựa vào 2 tiêu thức quan
trọng nhất đó là nội dung kinh tế ban đầu của chi phí và chức năng của chi phí đối
với toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay, chi phí sản xuất sản
phẩm xây lắp được phân loại theo các tiêu thức sau:
- Phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố
- Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí với quá trình sản
xuất.
- Phân loại chi phí sản xuất theo khoản mục giá thành
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc điểm của sản xuất kinh doanh xây lắp và phương
pháp lập dự toán trong kinh doanh xây lắp là lập dự toán cho từng đối tượng theo
khoản mục giá thành nên phương pháp tập hợp chi phí này được sử dụng phổ biến
nhất trong các doanh nghiệp kinh doanh xây lắp.
Theo cách phân loại này chi phí sản xuất được chia thành các khoản mục sau:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là toàn bộ vật liệu chính, vật liệu phụ, cấu kiện,
các bộ phận kết cấu công trình sử dụng trong quá trình xây lắp. Nó không bao
gồm giá trị nguyên vật liệu phục vụ cho máy thi công, vật liệu quản lý đội, công
trình, chi phí nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất chung.
Chi phí nhân công trực tiếp: là chi phí tiền lương cơ bản, phụ cấp... của các công
nhân trực tiếp sản xuất để hình thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí sử dụng máy thi công: là toàn bộ chi phí trực tiếp phát sinh trong quá
trình sử dụng máy thi công để thực hiện khối lượng xây lắp bằng máy bao gồm
chi phí khấu hao máy móc, tiền thuê máy, tiền lương công nhân điều khiển máy,
chi phí về nhiên liệu, động lực dùng cho máy thi công...
Chi phí sản xuất chung: là những khoản chi phí phục vụ cho sản xuất của đội,
công trình xây dựng nhưng không được tính trực tiếp bao gồm tiền lương cho
nhân viên quản lý đội, các khoản trích theo lương phải trả cho công nhân trực tiếp
xây lắp, nhân viên điều khiển máy thi công, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí
bằng tiền khác.
Cách phân loại này có tác dụng phục vụ quản lý sản xuất theo định mức, cung
cấp số liệu cho công tác tính giá thành sản phẩm, phân tích tình hình thực hiện giá
thành từ đó làm tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí và kế hoạch giá thành cho
kỳ sau.
Tóm lại, mỗi cách tập hợp chi phí sản xuất đều có ý nghĩa riêng phục vụ cho
từng đối tượng quản lý, từng đối tượng cung cấp thông tin cụ thể nhưng giữa các
cách phân loại này luôn bổ sung cho nhau nhằm quản lý có hiệu quả toàn bộ chi phí
phát sinh trong phạm vi từng doanh nghiệp, trong từng thời kỳ nhất định.
1.2.2 Giá thành sản phẩm xây lắp
1.2.2.1 Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp
Để thi công một công trình hay hoàn thành một khối lượng công việc nhất định
cần phải đầu tư vào quá trình sản xuất, thi công một khối lượng chi phí nhất định.
Những chi phí này cấu thành nên giá thành công trình hay hạng mục công
trình hoàn thành. Như vậy, giá thành sản phẩm xây lắp bao gồm toàn bộ chi phí sản
xuất (gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản
xuất chung) tính cho từng công trình hay hạng mục công trình, khối lượng công tác
xây lắp hoàn thành đến một giai đoạn quy ước đã hoàn thành, nghiệm thu, bàn giao
và chấp nhận thanh toán.
Nói cách khác, chi phí sản xuất chỉ là một mặt thể hiện sự hao phí, để đánh giá
chất lượng kinh doanh của các doanh nghiệp thì chi phí sản xuất phải được xem xét
trong mối quan hệ với mặt thứ hai cũng là một mặt quan trọng trong quá trình sản
xuất kinh doanh đó là kết quả sản xuất thu được. Quan hệ so sánh đó đã hình thành
nên chỉ tiêu “ Giá thành sản phẩm”
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về
lao động sống và lao động vật hóa để hoàn thành một khối lượng xây lắp theo quy định.
Về bản chất, giá thành là kết quả của việc chuyển dịch giá trị của các yếu tố
chi phí vào sản phẩm xây lắp, công việc, lao vụ hoàn thành. Trong giá thành sản
phẩm chỉ bao gồm những chi phí chi ra trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất
phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh nghiệp mà không bao gồm những chi phí
phát sinh trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2.2.2 Phân loại giá thành sản phẩm xây lắp
Hiện nay, có hai cách phân loại giá thành:
- Phân loại theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành
- Phân loại theo phạm vi tính giá thành
Phân loại theo thời điểm và nguồn số liệu để tính giá thành
Chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành kế hoạch, giá thành dự toán và
giá thành thực tế.
Giá thành dự toán (Zdt): là tổng số các chi phí dự toán để hoàn thành khối
lượng sản phẩm xây lắp. Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức
theo thiết kế được duyệt và khung giá quy định đơn giá xây lắp áp dụng vào từng
lãnh thổ, từng địa phương do cấp có thẩm quyền ban hành.
Zdt = Giá trị dự toán – lãi định mức
Giá trị dự toán là chi phí cho công tác xây dựng, lắp ráp các cấu kiện, lắp đặt
các máy móc thiết bị…bao gồm các chi phí trực tiếp, chi phí chung và lãi định mức.
Đây là cơ sở để xây dựng lập kế hoạch khối lượng các công tác xây lắp và
thanh toán công tác hoàn thành, là căn cứ để tính kết quả kinh doanh của doanh
nghiệp và để kiểm tra chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp của doanh nghiệp.
Giá thành kế hoạch (Zkh): là giá thành được xây dựng từ những điều kiện
kinh tế cụ thể của doanh nghiệp trên cơ sở phấn đấu hạ giá thành sản phẩm so với dự
toán bằng các biện pháp tăng cường quản lý kỹ thuật, thi công, vật tư, các định mức
đơn giá áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp.
Zkh= Giá thành dự toán – mức hạ giá thành dự toán
Với doanh nghiệp không có giá thành dự toán thì giá thành kế hoạch được xác
định khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế năm trước và các định mức
kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp. Nó bao gồm các chi phí gắn liền với sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm theo một danh mục thống nhất theo từng ngành sản xuất.
Giá thành thực tế (Ztt): Là giá thành phản ánh toàn bộ chi phí thực tế để hoàn
thành bàn giao khối lượng xây lắp mà doanh nghiệp đã nhận thầu. Giá thành này bao
gồm các chi phí theo định mức như các khoản thiệt hại trong sản xuất, các khoản bội
chi, lãng phí vật tư, lao động tiền vốn trong quá trình sản xuất và quản lý của doanh
nghiệp được phép tính vào giá thành. Giá thành thực tế được xác định vào cuối kỳ
kinh doanh.
Giá thành dự toán mang tính chất xã hội. Nhờ việc so sánh giá thành thực tế
với giá thành dự toán cho phép đánh giá trình độ quản lý của doanh nghiệp xây lắp
đó trong mối quan hệ với các doanh nghiệp xây lắp khác. Việc so sánh giá thành thực
tế với giá thành kế hoạch cho phép đánh giá sự tiến bộ hay non yếu cuả doanh nghiệp
xây lắp trong điều kiện cụ thể về cơ sở vật chất, trình độ tổ chức quản lý của bản thân
doanh nghiệp đó.
1.2.3 Mối quan hệ giữa chi phí và giá thành sản phẩm xây lắp
Đối với công tác quản trị doanh nghiệp, việc tính đúng, tính đủ chi phí sản
xuất có vai trò quan trọng trong việc xác định chính xác giá thành sản phẩm.
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu có quan hệ chặt chẽ với
nhau trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Chi phí biểu hiện mặt hao phí còn giá
thành biểu hiện mặt kết quả của quá trình sản xuất. Đây là hai mặt thống nhất của
một quá trình, vì vậy chúng giống nhau về chất. Giá thành và chi phí xây lắp đều bao
gồm chi phí về lao động sống và lao động vật hoá trong quá trình tạo ra sản phẩm.
Tuy nhiên, do bộ phận chi phí sản xuất giữa các kỳ không đều nhau nên giá thành và
chi phí sản xuất khác nhau về lượng, điều đó được thể hiện qua sơ đồ sau:
Tổng giá thành sản
phẩm
=
CPSX dở dang
đầu kỳ
+
CPSX phát sinh
trong kỳ
-
CPSX dở dang
cuối kỳ
Như vậy, nếu chi phí sản xuất là tổng hợp những chi phí phát sinh trong một
thời kỳ nhất định thì giá thành sản phẩm lại là tổng hợp những chi phí chi ra bất kỳ ở
kỳ nào nhưng gắn liền với việc sản xuất và hoàn thành một khối lượng công việc xây
lắp nhất định được nghiệm thu, bàn giao, thanh toán.
Về mặt kế toán, hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là hai
bước công việc liên tiếp gắn bó hữu cơ với nhau, tập hợp chi phí sản xuất là cơ sở để
tính giá thành sản phẩm. Do vậy, sự chính xác của công tác hạch toán chi phí sản
xuất quyết định tính chính xác của công tác tính giá thành.
Từ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm như đã phân tích
ở trên thì việc quản lý giá thành nhất thiết phải gắn liền với quản lý chi phí sản xuất
và hạch toán chi phí sản xuất sao cho hợp lý, đúng đắn là một yêu cầu có tính chất
quyết định đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3 KẾ TOÁN CHI PHÍ VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP
XÂY LẮP
1.3.1 Kế toán chi phí xây lắp
1.3.1.1 Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí xây lắp
Đối tượng hạch toán chi phí xây lắp
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là một giới hạn nhất định về địa điểm,
thời gian phát sinh mà các chi phí được tập hợp theo đó.
Sản xuất xây lắp có quy trình công nghệ phức tạp, loại hình sản xuất đơn
chiếc, thường phân chia thành nhiều khu vực, bộ phận thi công, mỗi hạng mục đều có
thiết kế riêng, cấu tạo vật chất của chúng rất khác nhau, mỗi hạng mục lại có dự toán
riêng. Đơn vị tính giá thành có thể là hạng mục công trình hoàn thành. Vì vậy, tuỳ
theo công việc cụ thể, trình độ quản lý của mỗi doanh nghiệp xây lắp mà đối tượng
hạch toán chi phí khác nhau, có thể là:
Công trình, hạng mục công trình.
Đơn đặt hàng.
Đội thi công, đội xây lắp, xí nghiệp xây lắp.
Việc xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là khâu đầu tiên và quan
trọng của tổ chức hạch toán quá trình sản xuất. Xác định đúng đối tượng hạch toán
chi phí sản xuất phù hợp với đặc điểm tình hình hoạt động sản xuất, đặc điểm quy
trình công nghệ sản xuất và yêu cầu quản lý chi phí sản xuất của doanh nghiệp mới
giúp cho việc tổ chức tốt công việc kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Từ khâu ghi
chép ban đầu, tổng hợp số liệu, tổ chức tài khoản kế toán, sổ chi tiết đều phải theo
đúng đối tượng tập hợp chi phí sản xuất đã xác định.
Phương