- Lý do chọn đề tài (nêu tầm quan trọng của đề tài)
- Vấn đề nghiên cứu (nêu những vấn đề đang tồn tại có liên quan đến đề tài)
- Mục tiêu nghiên cứu (từ những vấn đề tồn tại trên, mục tiêu của luận văn này là ….)
- Câu hỏi nghiên cứu hoặc giả thuyết
- Dữ liệu và Phương pháp nghiên cứu (sử dụng mô hình kinh tế lượng)
- Tóm tắt kết quả nghiên cứu
- Bố cục luận văn: gồm 5 phần
65 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 4036 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hướng dẫn phương pháp viết sử dụng dữ liệu thứ cấp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HƯỚNG DẪN PHƯƠNG PHÁP VIẾT LUẬN VĂN SỬ DỤNG DỮ LIỆU THỨ CẤP
Đề cương chi tiết
Phần 1: Phần giới thiệu
Lý do chọn đề tài (nêu tầm quan trọng của đề tài)
Vấn đề nghiên cứu (nêu những vấn đề đang tồn tại có liên quan đến đề tài)
Mục tiêu nghiên cứu (từ những vấn đề tồn tại trên, mục tiêu của luận văn này là ….)
Câu hỏi nghiên cứu hoặc giả thuyết
Dữ liệu và Phương pháp nghiên cứu (sử dụng mô hình kinh tế lượng)
Tóm tắt kết quả nghiên cứu
Bố cục luận văn: gồm 5 phần
Phần 2: Cơ sở lý luận
Nêu tóm tắt các kết quả nghiên cứu trước đây có liên quan đến đề tài để làm cơ sở nghiên cứu của luận văn. Từ các kết quả này, chúng ta xây dựng câu hỏi nghiên cứu hoặc các giả thuyết để kiểm định.
Phần 3: Thực trạng về đối tượng nghiên cứu (ngân hàng hoặc doanh nghiệp)
Chỉ tập trung vào các vấn đề có liên quan đến đề tài nghiên cứu. Ví dụ, nếu đề tài nói về lợi nhuận ngân hàng, thì chỉ được phép đề cập đến lợi nhuận của ngân hàng trong các năm qua như thế nào? Tại sao ngân hàng có lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp gặp khó khăn do khủng hoãng tài chính? Các yếu tố nào cấu thành lợi nhuận ngân hàng? …
Phần 4: Phương pháp nghiên cứu
Mô tả dữ liệu nghiên cứu
Xác định các biến hồi quy
Xác định mô hình hồi quy
Tóm tắt thống kê mô tả và ma trận tương quan của các biến lựa chọn
Phần 5: Kết quả hồi quy và thảo luận
Phân tích từng mối quan hệ một: tương quan thuận hay nghịch?, có ý nghĩa hoặc không có ý nghĩa thống kê?
Kết quả có ủng hộ giả thuyết đã chọn để kiểm định hay không? Nêu lý do cụ thể.
Kết quả phù hợp hay không phù hợp với các nghiên cứu trước đây? Nêu lý do tại sao? Tại sao không?
Kết quả có phù hợp hay không phù hợp với tình hình thực tiễn của đối tượng nghiên cứu? lý do tại sao và tại sao không?
Phần 6: Kết luận và đề xuất hướng nghiên cứu
Tóm tắt lại vấn đế đã nghiên cứu
Từ kết quả đạt được, nêu các kiến nghị cho các đối tượng liên quan
Nêu những mặt hạn chế của luận văn
Đề xuất hướng nghiên cứu mới
Tài liệu tham khảo
Các bảng biểu
Đề tài: Các yếu tố quyết định khả năng sinh lợi của Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam.
GVHD: TS. Phạm Hữu Hồng Thái
HV: Tô Yến Nga
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU TỔNG QUAN
Cơ sở hình thành đề tài:
Ngành ngân hàng được xem là xương sống của nền kinh tế Việt Nam, nó đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước. Thứ nhất, ngành ngân hàng đóng vai trò chủ đạo trong việc đầy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và hợp tác kinh doanh. Thứ hai, tín dụng ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự phát triền kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Với dư nợ cho vay nền kinh tế chiếm từ 35-37% GDP và mỗi năm ngành ngân hàng đóng góp trên 10% tổng mức tăng trưởng kinh tế của cả nước. Thứ ba, ngành ngân hàng đã hỗ trợ hiệu quả trong việc tạo việc làm mới, thu hút lao động có trình độ cao, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Như vậy, xét trên cấp độ vĩ mô, một hệ thống ngân hàng tốt, kinh doanh có hiệu quả, có khả năng chống chọi với các cú sốc tiêu cực, đóng góp tích cực vào sự ổn định của hệ thống tài chính quốc gia là mục tiêu chung trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Trong đó, khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định tình trạng sức khỏe của toàn hệ thống ngân hàng.
Xét ở cấp độ vi mô, khả năng sinh lợi là yếu tố quyết định giá cổ phiếu của các ngân hàng trên thị trường chứng khoán. Giá cổ phiếu của một ngân hàng cao hay thấp, tăng hay giảm đều có liên quan rất lớn đến khả năng sinh lợi của ngân hàng đó. Giá cổ phiếu đến lượt nó lại ảnh hưởng đến quyền lợi của các cổ đông, của ban lãnh đạo và các nhân viên trong ngân hàng.
Vì khả năng sinh lợi của ngân hàng mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng ở cả cấp độ vĩ mô lẫn vi mô, nên việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng là hết sức cần thiết. Nó cho chúng ta một bằng chứng khoa học cụ thể để có những biện pháp nhằm nâng cao khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại, qua đó góp phần phát triển kinh tế đất nước. Đó là lý do, tác giả chọn đề tài: “Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam.”
Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài cần đạt được các mục tiêu sau:
Xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của các ngân hàng TMCP Việt Nam.
Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đó lên khả năng sinh lợi của các ngân hàng TMCP
Đề nghị các giải pháp nhằm nâng cao khả năng sinh lợi của các ngân hàng TMCP
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của 15 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2010, bao gồm các cả các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
Số liệu được lấy từ các báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 15 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam trong khoảng thời gian từ 2005-2010 và báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á(ADB).
Phương pháp nghiên cứu
Với sự hỗ trợ của phần mềm Eviews 7.0, nghiên cứu sử dụng kỹ thuật hồi quy bảng (Panel regression) để phân tích các yếu tố bên trong cũng như các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của các NHTMCPVN, sử dụng phương pháp bình phương bé nhất cho mô hình Fixed Effects và Random Effects, nghiên cứu sử dụng Hausman test để kiểm định xem mô hình Fixed effects (FE) hay Random effects (RE) phù hợp hơn trong việc nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của các NHTMCPVN.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Ở cấp độ vĩ mô, kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó đưa ra được những chính sách vĩ mô kịp thời và hợp lý nhằm xây dựng một hệ thống ngân hàng vững chắc, hoạt động kinh doanh lành mạnh và hiệu quả.
Ở cấp độ vi mô, kết quả nghiên cứu là cơ sở khoa học để các nhà quản trị ngân hàng xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng và mức độ ảnh hưởng của chúng, từ đó có thể đưa ra các quyết định hợp lý, mang lại khả năng sinh lợi cao cho ngân hàng của mình, làm cho cổ phiếu ngành ngân hàng có sức hấp dẫn hơn trên thị trường.
Kết cấu luận văn
Luận văn bao gồm 6 chương
Chương 1: Giới thiệu tổng quan
Chương 2: Cơ sở lý luận
Chương 3: Thực trạng về khả năng sinh lợi của các NHTMCPVN
Chương 4: Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
Chương 5: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 6: Kết luận
CHƯƠNG 2:
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng. Trong khi một vài nghiên cứu tập trung vào việc tìm hiểu khả năng sinh lợi của các ngân hàng ở một khu vực, một nhóm các quốc gia (Ví dụ như: nghiên cứu của Bourke (1989) ở Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc; Molyneux và Thornton (1992) ở Châu Âu, Demirguc – Kunt và Huizinga (1999) ở 80 nước trên thế giới,… ) thì các nghiên cứu khác lại tập trung vào một quốc gia cụ thể (Ví dụ như: nghiên cứu của Berger (1995) ở Mỹ, Panayiotis P. Athanasoglou et.al (2005) ở Hy Lạp, Fadzan Sufian & Royfaizal Razali Chong (2008) ở Philippines, Fadlan Sufian (2011) ở Hàn Quốc,…). Dù nghiên cứu trên một nhóm các quốc gia hay ở một quốc gia riêng biệt thì các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng cũng được chia làm hai loại: các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
2.1. Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng có thể được định nghĩa là các nhân tố chịu ảnh hưởng bởi các quyết định mang tính chủ quan của ban lãnh đạo ngân hàng. Các nhân tố này bao gồm: quy mô vốn, quy mô tiền gửi khách hàng, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, chính sách lãi suất, mức độ đa dạng hóa, chi phí vận hành, năng suất lao động, tình trạng công nghệ thông tin.
2.1.1. Quy mô vốn (Capital size)
Tỷ số vốn được xem như là một công cụ giá trị để đo tình trạng đủ vốn cũng như sự an toàn và lành mạnh của một ngân hàng. Nhìn chung mọi người đều tin rằng một ngân hàng có vốn hóa tốt sẽ có khả năng sinh lợi cao hơn. Trong nghiên cứu của mình về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các ngân hàng ở 12 nước được chọn ra từ các khu vực Châu Âu, Bắc Mỹ và Úc, Bourke (1989) đã tìm ra mối tương quan thuận giữa tình trạng đủ vốn và khả năng sinh lợi. Ông đã chỉ ra rằng ngân hàng có tỷ số vốn càng cao thì khả năng sinh lợi càng cao. Tương tự, nghiên cứu của Berger (1995) dựa trên dữ liệu của các ngân hàng Mỹ trong khoảng thời gian nửa sau thập niên 1980, và nghiên cứu của Anghazo (1997) dựa trên dữ liệu của các ngân hàng Mỹ từ năm 1989 đến 2003 đều cho rằng các ngân hàng có vốn hóa tốt đều có khả năng sinh lợi cao hơn.
Mối tương quan thuận giữa tỷ số vốn và khả năng sinh lợi không chỉ giới hạn trong ngành ngân hàng Mỹ. Trong một nghiên cứu về khả năng sinh lợi của ngân hàng từ 18 nước Châu Âu trong vòng 4 năm từ 1986 đến 1989, Molyneux và Thornton (1992) cũng chỉ ra rằng tỷ số vốn có tác động thuận lên hiệu quả hoạt động của ngân hàng mặc dù mối quan hệ này ít nhiều bị ảnh hưởng bởi vấn đề sở hữu ngân hàng.
Demirguc – Kunt và Huizinga (1999) đã có một nghiên cứu rộng hơn về hiệu quả hoạt động của các ngân hàng ở 80 quốc gia bao gồm cả các nước phát triển và đang phát triển trong khoảng thời gian từ 1988 – 1995. Họ đã đi đến kết luận rằng các ngân hàng nước ngoài có khả năng sinh lợi cao hơn các ngân hàng nội địa ở các nước đang phát triển, trong khi điều này là ngược lại ở các nước phát triển. Tuy nhiên, nhìn chung, nghiên cứu của họ ủng hộ mối tương quan thuận giữa tỷ số vốn và khả năng sinh lợi. Nghiên cứu của Panayiotis P. Athanasoglou et.al (2005) dựa trên dữ liệu của các ngân hàng Hy Lạp trong khoảng thời gian từ 1985 – 2001 cũng chỉ ra vốn là một nhân tố quan trọng giải thích khả năng sinh lợi của ngân hàng, quy mô vốn ngân hàng càng lớn thì khả năng sinh lợi càng cao. Mối tương quan thuận giữa quy mô vốn và khả năng sinh lợi của ngân hàng cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Ben Naceur & Goaied (2008) khi xem xét tác động của các biến về ngân hàng, cấu trúc tài chính và các điều kiện kinh tế vĩ mô lên lợi nhuận biên và khả năng sinh lợi của các ngân hàng Tunisia trong khoảng thời gian từ 1980 – 2000.
Nghiên cứu tại khu vực Trung đông và Bắc Phi cũng cho kết quả tương tự. Sammy Ben Naceur & Omran (2008) đã phân tích ảnh hưởng của chính sách ngân hàng, sự cạnh tranh, sự cải cách tài chính đến khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại ở các nước thuộc khu vực Trung đông và Bắc Phi trong suốt khoảng thời gian từ 1989 – 2005 và đi đến kết luận về mối tương quan thuận giữa quy mô vốn và khả năng sinh lợi. Nghiên cứu của Valentina Flamini et al. (2009) về các yếu tố quyết định khả năng sinh lợi của các ngân hàng ở vùng Châu Phi cận Saharan (Sub Saharan Africa – SSA) dựa trên dữ liệu của 389 ngân hàng thuộc 41 nước SSA cũng đã đi đến kết luận về mối tương quan dương giữa quy mô vốn và khả năng sinh lợi. Nghiên cứu này đã đưa ra lời đề nghị rằng chính phủ các nước thuộc khu vực SSA cần có quy định vốn điều lệ cao hơn cho các ngân hàng nhằm đảm bảo tính an toàn và bền vững cho hệ thống tài chính. Trước đó, Uhomoibhi Toni Aburime (2008) nghiên cứu về các yếu quyết định khả năng sinh lợi của ngân hàng Nigeria từ dữ liệu của 33 ngân hàng trong khoảng thời gian từ năm 2000 - 2004 cũng cho kết quả tương tự.
Tại Châu Á, các nghiên cứu về khả năng sinh lợi của các ngân hàng đã được tiến hành và cho kết quả tương tự. Nghiên cứu của Fadzan Sufian & Royfaizal Razali Chong (2008) về các yếu tố quyết định khả năng sinh lợi của các ngân hàng ở một nền kinh tế đang phát triển: bằng chứng thực nghiệm từ Philippines trong khoảng thời gian từ 1990 – 2005, nghiên cứu của Sufian & Habibullah (2009) về các yếu tố quyết định khả năng sinh lợi của các ngân hàng Trung Quốc trong khoảng thời gian từ 2000 – 2005, cả hai nghiên cứu đã củng tìm ra mối tương quan dương giữa quy mô vốn và khả năng sinh lợi của ngân hàng. Gần đây nhất là nghiên cứu của Fadlan Sufian (2011) dựa trên dữ liệu của 29 ngân hàng Hàn Quốc trong khoảng thời gian từ 1992-2003 cho thấy các ngân hàng có quy mô vốn lớn có khả năng sinh lợi cao. Nghiên cứu này cho rằng các ngân hàng có vốn hóa tốt đối mặt với nguy cơ vỡ nợ thấp hơn. Hơn nữa, một cấu trúc vốn mạnh rất cần thiết cho các ngân hàng trong nền kinh tế đang phát triển, vì nó cung cấp thêm sức mạnh cho các ngân hàng có thể đứng vững trong thời kỳ khủng hoảng tài chính và tăng mức độ an toàn cho người gửi tiền khi phải đối mặt với các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định.
Như vậy tất cả các nghiên cứu được thực hiện trong các khoảng thời gian khác nhau, tại những khu vực địa lý khác nhau đều cho kết quả về mối tương quan dương giữa quy mô vốn và khả năng sinh lợi của ngân hàng.
2.1.2. Quy mô tiền gửi (Size of deposit liabilities)
Samy Ben Naceur và Mohamed Goaied (2001) nghiên cứu các yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động của ngân hàng Tunisia trong khoảng thời gian từ năm 1980 – 1995 chỉ ra rằng các ngân hàng hoạt động tốt nhất đều duy trì mức độ tiền gửi cao so với tài sản của họ. Tỷ lệ tiền gửi so với tài sản càng lớn nghĩa là ngân hàng càng có nhiều vốn để tài trợ cho các hoạt động đầu tư và cho vay. Việc gia tăng hoạt động đầu tư và cho vay đến lượt nó lại mang lại lợi nhuận trên tổng tài sản cao cho ngân hàng (Linda Allen & Anoop Rai, 1996 và Ken Holden & Magdi El-Banany, 2004).
2.1.3. Quy mô ngân hàng (Bank size)
Kết quả nghiên cứu của Fadzan Sufian & Royfaizal Razali Chong (2008) tại Philippines, nghiên cứu của Pasiouras & Kosmidous (2007) tại ngân hàng của 15 nước EU trong khoảng thời gian từ 1995-2001, nghiên cứu của Staikouras, Mamatzakis & Koutsomanoli – Filippaki (2008) tại các ngân hàng Châu Âu từ năm 1998-2005 đã tìm ra mối tương quan âm giữa quy mô ngân hàng và khả năng sinh lợi của các ngân hàng. Trong khi đó, kết quả nghiên cứu của Fadlan Sufian (2011) tại Hàn Quốc, nghiên cứu của Spathis et al. (2002) tại các ngân hàng Hy Lạp từ năm 1990 – 1999, nghiên cứu của Kosmidous (2008) tại các ngân hàng Hy Lạp từ năm 1990-2002 đã tìm ra mối tương quan dương giữa quy mô ngân hàng và khả năng sinh lợi của các ngân hàng.
2.1.4. Rủi ro thanh khoản (Liquidity risk)
Molyneux và Thornton (1992) và Fadlan Sufian (2011) đều tìm ra mối tương quan nghịch giữa rủi ro thanh khoản và khả năng sinh lợi của ngân hàng, kết quả nghiên cứu cho thấy ngân hàng có khả năng thanh quản kém hơn sẽ có khả năng sinh lợi cao hơn.
2.1.5. Rủi ro tín dụng (Credit risk)
Các nghiên cứu của Panayiotis P. Athanasoglou et.al (2005) ở Hy Lạp, Panayiotis P.Athanasoglou et.al (2006) ở vùng đông nam Châu Âu, Fadzlan Sufian & Royfaizal Razali Chong (2008) ở Philippines, Anna P.I.Vong & Hoi Si Chan (2009) ở Macao, Fadlan Sufian (2011) ở Hàn Quốc đều tìm ra mối tương quan âm giữa rủi ro tín dụng và khả năng sinh lợi của ngân hàng. Các nghiên cứu này đưa ra lời khuyên rằng các ngân hàng nên tập trung vào việc quản lý rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng hơn là việc mở rộng dư nợ tín dụng.
2.1.6. Mức độ đa dạng hóa (Level of diversification)
Khi các ngân hàng được đa dạng hóa, nó có thể sinh ra nhiều nguồn thu nhập hơn, vì thế có thể giảm được sự phụ thuộc của nó vào thu nhập từ lãi, thu nhập mà dễ dàng bị chịu ảnh hưởng bởi môi trường kinh tế vĩ mô. Kết quả nghiên cứu của Guorong Jiang et al. (2003) chỉ ra rằng các ngân hàng đa dạng hóa ở Hong Kong có khả năng sinh lợi cao. Tương tự, nghiên cứu của Fadzlan Sufian (2011) cũng cho thấy mối tương quan thuận giữa thu nhập phi lãi và khả năng sinh lợi của ngân hàng Hàn Quốc. Nghiên cứu chỉ ra rằng các ngân hàng có thu nhập đa dạng từ các công cụ phái sinh và các hoạt động thu phí khác có khả năng sinh lợi cao. Nghiên cứu của Fadzlan Sufian & Royfaizal Razali Chong (2008) ở Philippines cũng cho thấy mối tương quan dương giữa thu nhập phi lãi và khả năng sinh lợi của ngân hàng. Nghiên cứu này đưa ra lời đề nghị rằng các ngân hàng nên cung cấp nhiều sản phẩm và dịch vụ mới để nâng cao khả năng sinh lợi. Ngoài ra, các ngân hàng cũng cần chú trọng đến việc phát triển công nghệ để tăng thêm tính tiện ích cho các sản phẩm của mình cũng như góp phần cải thiện năng suất lao động cho ngân hàng.
2.1.7. Chi phí hoạt động (Operating cost)
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, các ngân hàng có chi phí hoạt động càng cao thì khả năng sinh lợi càng thấp. Và lập luận đó đã được ủng hộ bởi kết quả nghiên cứu của Bouke (1989), Guorong Jiang et al. (2003), Panayiotis P. Athanasoglou et.al (2005), Fadlan Sufian (2011), Fadzlan Sufian & Royfaizal Razali Chong (2008), Sufian & Habibullah (2009).
Ngược lại Molyneur và Thornton (1992) lại phát hiện ra biến chi phí có tác động thuận đến khả năng sinh lợi của ngân hàng Châu Âu. Họ đã chứng minh được rằng các ngân hàng đạt được lợi nhuận cao có chi phí tiền lương cao. Nghiên cứu của Balachandher K.Guru et al.(2002) về các yếu tố quyết định khả năng sinh lợi của các ngân hàng ở Malaysia, sử dụng mẫu là 17 ngân hàng thương mại Malaysia trong khoảng thời gian từ 1986 - 1995 đã cho kết quả về mối tương quan thuận giữa chi phí vận hành và khả năng sinh lợi của ngân hàng. Mối tương quan thuận giữa khả năng sinh lợi và chi phí cũng được tìm thấy ở Tunisia trong nghiên cứu của Ben Naceur & Goaied (2008). Kết quả nghiên cứu của họ đã ủng hộ học thuyết tiền lương: lương tăng thì năng suất lao động cũng tăng.
2.1.8. Chính sách lãi suất (Interest rate policy)
Chính sách lãi suất của ngân hàng bao gồm lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Lãi suất huy động là một trong những nguồn chi phí vốn của ngân hàng. Đó là lý do tại sao Steven Fries et al. (2002) cho rằng hàm số lợi nhuận của một ngân hàng bao gồm tiền lãi để thanh toán cho người gửi tiền. Mặt khác, tiền lãi từ hoạt động tín dụng của ngân hàng là nguồn thu nhập chủ yếu được dùng để tái đầu tư mở rộng kinh doanh. Bobáková (2003) cho rằng khả năng sinh lợi của ngân hàng bị ảnh hưởng bởi chính sách lãi suất và chính sách này có thể được điều chỉnh để nâng cao khả năng sinh lợi của ngân hàng. Vì thế, yếu tố quyết định chính là năng lực của ngân hàng trong việc xây dựng chuẩn khung lãi suất để đáp ứng chi phí sử dụng vốn, chi phí hoạt động cũng như lợi nhuận yêu cầu của các cổ đông ngân hàng.
2.1.9. Năng suất lao động (Labour productivity)
Những bằng chứng thực nghiệm từ Panayiotis P. Athanasoglou et al.,( 2005) đã chỉ ra rằng năng suất lao động tăng có ảnh hưởng tích cực và quan trọng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng. Nghiên cứu này cho thấy năng suất lao động cao là một nhân tố quan trọng tạo ra thu nhập cao cho ngân hàng. Vì thế, các ngân hàng nên hướng đến mục tiêu tăng năng suất lao động thông qua các chiến lược khác như: giữ ổn định đội ngũ lao động, đảm bảo chất lượng cao hơn của lao động được tuyển dụng mới, cắt giảm nhân sự để tăng tổng đầu ra bằng cách tăng cường đầu tư vào các tài sản cố định kết hợp với công nghệ mới.
2.1.10. Tình trạng công nghệ thông tin (State of information technology)
Hệ thống công nghệ thông tin góp phần quan trọng trong việc quản lý cũng như hiệu quả dịch vụ khách hàng. Porter và Millar (1985) đã chứng minh rằng đầu tư vào công nghệ thông tin đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm tổng chi phí của ngân hàng (đưa ra lợi thế chi phí) và đa dạng hóa sản phẩm (đưa ra lợi thế cạnh tranh), được phản ánh trong sự gia tăng của lợi nhuận ròng.
Sử dụng những bằng chứng từ những dữ liệu kế toán, Holden và El-Bannany đã điều tra thực nghiệm xem liệu việc đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin có ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của ngân hàng Mỹ trong suốt khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 1996 hay không. Kết quả nghiên cứu của họ chỉ ra rằng việc đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin (chủ yếu là đầu tư vào hệ thống máy ATM) có ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh lợi của ngân hàng. Tương tự, một vài nghiên cứu khác (ví dụ như: Abdullah, 1985; Katagiri, 1989; Shawky, 1995 và Gupta, 1998) cho thấy rằng việc phát triển hệ thống máy ATM của ngân hàng sẽ đem lạ