Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí 
quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có 
ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH, 
HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận 
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển 
bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù 
hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông 
qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu 
nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân 
vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh 
tế.
NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối 
và sử dụng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật 
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền 
kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu 
chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế -xã 
hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp 
kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì 
hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định tình hình kinh tế -xã hội, 
phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH.
Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của 
NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho 
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo 
nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng v à phát tri ển kinh tế - xã hội của 
đất n ước.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 59 trang
59 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1886 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP 
KHOA 
KINH TẾ - TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP 
Đề tài: Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử 
dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang 
2 
mục lục 
 Trang 
Đặt vấn đề 
 Nội dung chuyên đề 
 Phần thứ nhất 
một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà nước 
I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá. 
II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà 
Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội . 
III. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động 
viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách 
Nhà nước. 
 Phần thứ hai 
tình hình về tự nhiên- kinh tế-xã hội và thưc trạng công tác quản lý sử dụng 
NSNN tỉnh hà giang 
I. Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Giang. 
II. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang 
1997- 1999. 
III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy 
năm qua. 
 Phần thứ ba 
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và 
sử dụng NSNN của tỉnh hà giang 
I. Phương hướng, mục tiêu chung. 
II. Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản 
lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang 
 Kiến nghị và kết luận. 
I. Kiến nghị 
II. Kết luận. 
 Danh mục tài liệu tham khảo 
3 
Đặt vấn đề 
1. Sự cần thiết của đề tài. 
Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí 
quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có 
ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. 
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH, 
HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận 
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng 
xã hội chủ nghĩa thì đòi hỏi có khối lượng vốn vô cùng lớn và phát triển 
bền vững. Muốn vậy phải có chính sách tài chính quốc gia tiên tiến phù 
hợp, trong đó NSNN là một tong những công cụ quan trọng nhất. Thông 
qua công cụ NSNN thực hiện phân phối lần đầu và phân phối lại thu 
nhập quốc dân, nhờ đó tập trung một phần quan trọng thu nhập quốc dân 
vào NSNN, đảm bảo nguồn vốn cho tái sản xuất mở rộng của nền kinh 
tế. 
NSNN là công cụ để thực hiện tích luỹ và tập trung vốn, phân phối 
và sử dụng vốn cho quá trình CNH, HĐH đất nước, xây dựng cơ sở vật 
chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, từng bước làm thay đổi cơ cấu nền 
kinh tế theo hướng đi lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. 
NSNN giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu 
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, các kế hoạch phát triển kinh tế - xã 
hội, các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân. NSNN còn cung cấp 
kinh phí cho hoạt động của các lĩnh vực không sản xuất vật chất, duy trì 
hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ ổn định tình hình kinh tế - xã hội, 
phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát triển theo hướng CNH, HĐH. 
Vì vậy cần phải nhận thức đầy đủ, đúng đắn vị trí, vai trò của 
NSNN, trên cơ sở đó tiến hành đổi mới các hoạt động của NSNN cho 
phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, nhằm đảm bảo 
nguồn vốn đáp ứng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của 
đất nước. 
4 
Hà Giang là một tỉnh miền núi phía Bắc của Tổ quốc, có nhiều 
tiềm năng thế mạnh. Tuy nhiên cho đến nay vẫn là một tỉnh nghèo nhất 
của nước ta. Điều đó được thể hiện rõ nhất trên các mặt kinh tế, xã hội, 
về các cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là kết cấu hạ tầng, về lực lượng 
sản xuất và NSLĐ... đang yếu kém và lạc hậu. Với tình trạng đó thì chưa 
thể đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH nền kinh tế của tỉnhvà đồng thời cũng 
gặp khó khăn trong việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân các dân 
tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là 
Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết mâu 
thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những 
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách. 
Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản 
lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt 
nghiệp cử nhân chính trị. 
2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài. 
- Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận, 
quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phương để trình bày bản luận văn 
tốt nghiệp cử nhân chính trị của mình; đồng thời thông qua sự nghiên 
cứu này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh 
vực quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang. 
- Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các 
nhiệm vụ sau: 
+ Khái quát một vài nét chung nhất về lý luận của NSNN và vai 
trò của NSNN trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội 
của nước ta trong TKQĐ lên CNXH. 
+ Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xã hội 
cũng như thực trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện 
nay. 
+ Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được 
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN 
của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới. 
5 
- Phương pháp của đề tài: 
Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xã hội. Do đó, trong 
quá trình nghiên cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận 
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng 
thời bám sát vào quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà 
nước trong lĩnh vực của đề tài nêu ra. 
Để thể hiện đề tài, luận văn còn sử dụng tổng hợp phương pháp 
phân tích, thống kê, tổng hợp từ tình hình và các số liệu của thực tiễn, để 
từ đó rút ra những nhận xét có căn cứ. Luận văn còn coi trọng tính kế 
thừa có chọn lọc thành quả của những công trình, những tác giả đã 
nghiên cứu vấn đề này. 
- Phạm vi của đề tài: 
Vấn đề quản lý và sử dụng NSNN là một vấn đề rộng lớn, khó 
khăn và phức tạp, đặc biệt là đối với những địa phương như Hà Giang 
nền kinh tế còn ở trình độ thấp và phát triển chậm. Tuy nhiên, trong 
khuôn khổ có mức độ của luận văn cử nhân chính trị, đề tài chỉ giới hạn 
ở phạm vi nghiên cứu công tác quản lý và sử dụng NSNN ở một địa 
phương - đó là tỉnh Hà Giang. Trong đó tập trung làm rõ thực trạng của 
quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh và qua đó nêu lên một số giải pháp 
để thực hiện quản lý tốt hơn NSNN của tỉnh. Đề tài không đủ điều kiện 
để nghiên cứu và thể hiện hết mọi khía cạnh của đề tài nói trên. 
3. Bố cục của luận văn. 
Ngoài phần đặt vấn đề, kiến nghị và kết luận, nội dung của luận 
văn gồm cả 3 phần chính sau đây: 
Phần thứ nhất: Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà 
nước (NSNN). 
Phần thứ hai: Tình hình cơ bản về tự nhiên - kinh tế - xã hội và 
thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang. 
Phần thứ ba: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng 
cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang. 
6 
Nội Dung Luận Văn 
Phần thứ nhất 
Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà 
nước (NSNN ) 
I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá. 
1. Ngân sách Nhà nước . 
a. Khái niệm NSNN: 
Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến 
trong đời sống kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác 
nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực 
tiễn của nước ta hiện nay là: 
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán 
đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện 
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước. 
Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi 
tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến 
hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội. 
Tuy đa dạng, phong phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung: 
Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực 
kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở 
những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó 
chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ 
kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích 
7 
quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối 
các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước. 
Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành 
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại 
giá trị tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng, 
nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất 
định. 
Như vậy, chúng ta thấy rằng thu, chi của NSNN hoàn toàn không 
giống bất kỳ một hình thức thu chi của một loại quỹ nào. Thu của NSNN 
phần lớn đều mang tính chất bắt buộc, còn các khoản chi của NSNN lại 
mang tính chất không hoàn lại. Đây là đặc trưng nổi bật của NSNN trong 
bất cứ một Nhà nước nào. Xuất phát từ quyền lực của Nhà nước và các 
nhu cầu về tài chính để thực hiện chức năng quản lý và điều hành của 
Nhà nước đối với nền kinh tế - xã hội. Do nhu cầu chi tiêu của mình, 
Nhà nước đã sử dụng quyền lực thông qua hệ thống pháp luật tài chính 
buộc mọi pháp nhân và thể nhân phải đóng góp một phần thu nhập của 
mình cho NSNN, tức là các chủ thể kinh tế thực hiện nghĩa vụ của mình 
với Nhà nước. Sự bắt buộc đó là hoàn toàn khách quan, vì lợi ích của 
toàn xã hội chứ không phải phục vụ cho lợi ích riêng của Nhà nước. Các 
đối tượng nộp thuế cũng hoàn toàn ý thức được nghĩa vụ của mình trong 
việc đảm bảo sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Họ cũng hiểu được 
vai trò của Nhà nước trong việc sử dụng các nguồn lực tài chính nhằm 
thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội, do nhân dân giao phó. Sự tồn tại 
và hoạt động của Nhà nước chính là yếu tố quyết định tính chất hoạt 
động của NSNN, nói lên bản chất của NSNN. Mọi hoạt động của NSNN 
đều nhằm vào việc tạo lập và sử dụng các nguồn lực tài chính, nó phản 
ánh hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã 
hội, phát sinh do Nhà nước tạo lập thông qua NSNN. Đó là mối quan hệ 
kinh tế giữa phần nộp vào NSNN và phần để lại cho các chủ thể kinh tế 
trong xã hội. Phần nộp vào ngân sách sẽ tiếp tục được phân phối lại 
nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước và phục vụ cho các nhu cầu 
phát triển kinh tế - xã hội. 
8 
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước có thể sử dụng các 
công cụ sẵn có để bắt buộc mỗi thành viên trong xã hội cung cấp cho 
mình các nguồn lực tài chính cần thiết. Song cơ sở tạo lập các nguồn lực 
tài chính xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các 
thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế và đấu 
tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của mình, 
Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi ích 
Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có 
NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật 
kinh tế một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích 
của Nhà nước và lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một NSNN lớn 
mạnh phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản 
xuất kinh doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn 
thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng. 
Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế 
giữa Nhà nước và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình 
Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo 
thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà 
nước. 
Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ 
một Nhà nước nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của 
mình, trước hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ 
máy quản lý Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu 
văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát triển v.v... 
Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập hợp các khoản thu 
theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính 
sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm 
bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối 
thu chi bằng tiền của Nhà nước. 
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các 
khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN 
kiểm tra, giám sát quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng 
9 
trốn lậu thuế, chây ỳ nộp thuế của các đối tượng thực hiện nghĩa vụ nộp 
NSNN hoặc bị lạm dụng, làm trái pháp luật, coi thường pháp luật và các 
chính sách động viên khác. Trong khâu cấp phát nếu buông lỏng việc 
kiểm tra, kiểm soát chi thì dễ dẫn đến tình trạng làm sai luật định và các 
chế độ chi quy định. Đồng thời thông qua kiểm tra, kiểm soát hoạt động 
thu chi NSNN giúp ta giám sát việc chấp hành các chế độ, chính sách 
của Đảng và Nhà nước. Thông qua đó đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu 
quả xã hội của vốn NSNN, hiệu quả của các chủ trương, chính sách, chế 
độ do Đảng và Nhà nước đề ra. 
Như vậy, hai chức năng phân phối và giám đốc luôn có mối quan 
hệ mật thiết với nhau, có vị trí và tầm quan trọng như nhau, không thể 
coi chức năng này hơn chức năng kia, mà phải coi trọng cả hai chức 
năng ở mọi lúc, mọi nới trong tạo lập và sử dụng vốn NSNN. 
b. Các khoản thu huy động vào NSNN và chi NSNN. 
* Các khoản thu NSNN. 
- Các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí. 
Đây là các khoản thu bắt buộc thực hiện nghĩa vụ của các doanh 
nghiệp, các tổ chức và công dân do những yêu cầu tất yếu về kinh tế - 
chính trị - xã hội để bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà nước, giữ 
vững quốc phòng, an ninh và bảo đảm các sự nghiệp xã hội. 
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước. 
Đây là các quan hệ thu thực hiện lợi ích kinh tế các loại tài sản và 
vốn bằng tiền thuộc sở hữu toàn dân giao cho Nhà nước quản lý và cho 
phép các chủ thể trong nền kinh tế sử dụng. Các quan hệ này cũng là bắt 
buộc, nhưng dựa trên các yếu tố kinh tế là đảm bảo cho chủ sở hữu thực 
hiện được lợi ích kinh tế, quyền sở hữu các loại tài sản đưa vào quá trình 
sản xuất xã hội. Những ai sử dụng nhiều tài sản của Nhà nước vào mục đích 
kinh doanh trên các địa bàn và những ngành nghề có hiệu quả kinh tế cao thì 
phải đóng góp nhiều vào NSNN. 
10 
Trình độ xã hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn thì nguồn 
thu tập trung vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều. 
Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hình thức này không chỉ đảm 
bảo nguồn lực tài chính cho Nhà nước, mà còn là hình thức cụ thể thực 
hiện quản lý chặt các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát 
triển chế độ sở hữu toàn dân. 
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng 
phải đóng góp theo luật định. 
- Các khoản viện trợ: Hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn 
lại, của các tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế. 
Nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và 
Nhà nước. Đây là nguồn thu nhất thời, không ổn định, không tính toán 
trước một cách chính xác. 
- Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân 
đối NSNN. 
Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà 
nước trong nước và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển 
kinh tế. Đây là nguồn thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ 
hạn Nhà nước phải thanh toán. Vì vậy, việc sử dụng hình thức này đòi 
hỏi các tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế - 
xã hội của công trình và khả năng thu hồi vốn để trả nợ. 
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật. 
* Các khoản chi lấy từ NSNN. 
Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao 
gồm: 
- Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội. 
- Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động 
của bộ máy Nhà nước. 
11 
Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia 
nhằm để giữ vững an ninh tổ quốc, ổn định chính trị - xã hội. 
Quy mô khoản chi này tuỳ thuộc vào việc xác định chức năng 
nhiệm vụ và tổ chức bộ máy Nhà nước xuất phát từ tình hình kinh tế - 
chính trị - xã hội ở trong nước và quốc tế. Trên cơ sở xác định quy mô 
chi tiêu cần thiết cho lĩnh vực này, tiến hành phân bổ các loại thuế trực 
thu và gián thu, thông qua thực thu các sắc thuế mà bảo đảm nguồn lực 
tài chính đầy đủ cho nhu cầu này. 
- Các khoản chi trả nợ củ Nhà nước: Tuỳ theo mức độ bội chi của 
ngân sách, quy mô và các điều kiện tín dụng Nhà nước về thời hạn trả nợ 
và mức lãi suất mà khoản chi này có tỷ lệ cao hay thấp trong tổng chi 
NSNN. ở nước ta hiện nay, do hậu quả của việc quản lý vốn vay chưa 
tốt, để thất thoát lớn và việc sử dụng hiệu quả thấp, cho nên nợ nước 
ngoài tồn đọng rất lớn, cho nên chi trả nợ nước ngoài đang là vấn đề 
căng thẳng. Khả năng trả nợ thấp, tuy nhiên chúng ta vẫn phải đảm bảo 
uy tín trong quan hệ quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần 
khống chế nhu cầu chi tiêu trong nước để dành tiền trả nợ. 
Đối với vay từ nguồn trong nước dưới nhiều hình thức, trong đó 
chủ yếu là hình thức tín phiếu kho bạc Nhà nước ngắn hạn và tín phiếu 
dài hạn để huy động vốn trong dân vào nhu cầu đầu tư. Hướng chủ yếu 
của tín dụng Nhà nước là các khoản vay dài hạn đầu tư phát triển kinh tế. 
Nhưng hình thức này chỉ phát triển trong điều kiện sức mua đồng tiền ổn 
định và lãi suất hợp lý đem lại lợi ích người cho vay, đồng thời đảm bảo 
cho Nhà nước thanh toán được nợ. 
- Các khoản chi dự trữ Nhà nước (từ 3 - 5% tổng số dư). Đây là 
khoản dự phòng cho những nhu cầu đột xuất bất trắc có thể xảy ra trong 
khi thực hiện nhiệm vụ của Nhà nước. 
- Các khoản chi viện chợ và các khoản chi khác theo quy định của 
pháp luật. 
NSNN bao gồm hai cấp: Trung ương và địa phương. Quan hệ giữa 
hai cấp này được thực hiện theo nguyên tắc chủ yếu là phân định nguồn 
12 
thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho 
ngân sách cấp dưới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực 
hiện được nhiệm vụ của các vùng, các địa phương. 
NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ 
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày 
càng cao vào đầu tư phát triển. Nếu có bội chi thì số bội chi đó phải nhỏ 
hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có 
vay để bù đắp bội chi NSNN thì phải trên nguyên tắc tiền vay được 
không sử dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và 
có kế hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả 
nợ đến hạn. Ngân sách địa phương được cân đối theo quy tắc: tổng số 
chi không được vượt quá tổng số thu... 
2. Chính sách tài khoá. 
Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy 
động các nguồn thu vào NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định 
(thường là 1 năm). 
Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến kiềm 
chế lạm phát và tình trạng thất nghiệp; có tác động đến điều chỉnh nền 
kinh tế, cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các 
nguồn lực tài chính, tạo môi trường và điều kiện cho phát triển kinh tế - 
xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, chính sách tài khoá cần xử lý nhiều mối 
quan hệ, trong đó giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn chủ yếu sau đây 
là nội dung cốt lõi của chính sách tài khoá: 
+ Mâu thuẫn thu - chi NSNN. Đây là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ 
một quốc gia nào, đặc biệt gay gắt đối với các nước kém phát triển. Xuất 
phát của mâu thuẫn này là do chi tiêu của Nhà nước lớn, trong khi nguồn 
thu bị hạn chế. Vì vậy, cần có những biện pháp tích cực để khống chế 
nhu cầu chi của Nhà nước. Đồng thời tích cực thu đúng, thu đủ, tận dụng 
các nguồn thu. 
Để thực hiện cân đối thu - chi, cần giữ vững 2 đối cân đối chủ yếu: 
13 
Một là, thu từ các loại thuế trực thu và gián thu phải bảo đảm nhu 
cầu chi thường xuyên của bộ máy Nhà nước, quốc phòng, an ninh... 
Hai là, quy mô đầu tư phát triển kinh tế - xã hội p