Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến
các phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực,
có hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi
nước, đồng thời là yếu tố cựckỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc
gia. Đã bao thời nay, loài người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một
nhận thức đúng đắn để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế
một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến nó trở thành một công cụ tích cực
trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại "giá của
giá" , bị chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính
trừu tượng vốn có của bản thân nó. Tỷ giá hối đoái không phải chỉ là cái gì
đó để ngắm mà trái lại, là cái mà con người cần phải tiếp cận hàng ngày,
hàng giờ, sử dụng nó trong mọi quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc sử lý
những vấn đề cụ thể liên quan đến các chính sách kinh tế trong nước và
quốc tế. Và do vậy, nhận thức một cách đúng đắn và sử lý một cách phù
hợp một cách tỷ giá hối đoái là một nghệ thuật.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình quốc
tế hoá đã bao trùmtất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong cuộc
sống, thì sự gia tăng của hợp tác quốc tế nhằm phát huy và sử dụng những
lợi thế so sánh của mình đã làm cho việc quản lý đời sống kinh tế của đất
nước và là mối quan tâm đặc biệt của chính phủ các nước trong quá trình
phục hưng và phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong những nước như
vậy.
38 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2123 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Đề Tài:
Một số vấn đề về tỷ giá hối
đoái và chính sách tỷ giá
hối đoái ở Việt Nam
A - LỜI MỞ ĐẦU
Tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế tổng hợp có liên quan đến
các phạm trù kinh tế khác và đóng vai trò như là một công cụ có hiệu lực,
có hiệu quả trong việc tác động đến quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi
nước, đồng thời là yếu tố cực kỳ quan trọng đối với chính sách tiền tệ quốc
gia. Đã bao thời nay, loài người đã và đang tiếp tục đứng trước một vấn đề
có tầm quan trọng đặc biệt này và cố gắng tiếp cận nó, mong tìm ra một
nhận thức đúng đắn để từ đó xác định và đưa vào vận hành trong thực tế
một tỷ giá hối đoái phù hợp, nhằm biến nó trở thành một công cụ tích cực
trong quản lý nền kinh tế ở mỗi nước.
Tỷ giá hối đoái, như các nhà kinh tế thường gọi là một loại "giá của
giá" , bị chi phối bởi nhiều yếu tố và rất khó nhận thức, xuất phát từ tính
trừu tượng vốn có của bản thân nó. Tỷ giá hối đoái không phải chỉ là cái gì
đó để ngắm mà trái lại, là cái mà con người cần phải tiếp cận hàng ngày,
hàng giờ, sử dụng nó trong mọi quan hệ giao dịch quốc tế, trong việc sử lý
những vấn đề cụ thể liên quan đến các chính sách kinh tế trong nước và
quốc tế. Và do vậy, nhận thức một cách đúng đắn và sử lý một cách phù
hợp một cách tỷ giá hối đoái là một nghệ thuật.
Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ngày nay, khi mà quá trình quốc
tế hoá đã bao trùm tất cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh và trong cuộc
sống, thì sự gia tăng của hợp tác quốc tế nhằm phát huy và sử dụng những
lợi thế so sánh của mình đã làm cho việc quản lý đời sống kinh tế của đất
nước và là mối quan tâm đặc biệt của chính phủ các nước trong quá trình
phục hưng và phát triển kinh tế. Việt Nam là một trong những nước như
vậy.
Xuất phát từ những lý do trên đây, Em chọn đề tài của mình là "Một
số vấn đề về tỷ giá hối đoái và chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam".
Tập đề án được chia làm 2 phần chính.
Những vấn đề lý thuyết chung ( chương I )
Những chính sách tỷ giá hối đoái ở Việt Nam ( chương II )
Do đề ra, chương I sẽ chiếm phần lớn tập đề án. ở chương II. Và em
sẽ cố gắng trình bầy và thể hiện những gì đã đề cập trong chương I.
Dưới đây em xin trình bầy nội dung đề án của mình.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Những vấn đề lý thuyết chung
I. Tỷ giá hối đoái và sự hình thành tỷ giá hối đoái
1. Tỷ giá hối đoái:
Hầu hết mỗi quốc gia hay một nhóm quốc gia liên kết (như liên minh
Châu Âu) đều có đồng tiền riêng của mình. Việt nam có tiền đồng (VNĐ)
Trung quốc có Nhân dân tệ (CNY), Mỹ có Dollar (USD).
Mối liên hệ kinh tế giữa các nước, các nhóm nước với nhau mà trước
hết là quan hệ mua bán trao đổi đầu tư dẫn đến việc cần có sự trao đổi đồng
tiền của các nước khác nhau với nhau, đông tiền này đổi lấy đông ftiền kia,
từ đố ta có thể nói rằng: tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của
một nước tính bằn tiền tệ của một nước khác. Thông thường, thuật ngữ "Tỷ
giá hối đoái" được ngầm hiểu là số lượng đơn vị tiền nội tệ cần thiết để
mua một đơn vị ngoại tệ, tuy nhiên ở Mỹ và Anh được sử dụng theo nghĩa
ngược lại: số lượng đơn vị ngoại tệ cần thiết để mua một đồng USD hoặc
đồng bảng Anh; ví dụ: ở Mỹ 0,8 xu/USD.
Các nhà kinh tế thường đề cập đến hai loại tỷ gia hối đoái:
- Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (en): đây là tỷ giá hôí đoái được biết
đến nhiều nhất do ngân hàng nhà nước công bố trên các phương tiện thông
tin đại chúng hàng ngày.
- Tỷ giá hối đoái thực tế (er) được xác định er = en * Pn/Pf
Pn: chỉ số giá trong nước
Pf: chỉ số giá nước ngoài
Tỷ giá hối đoái thực tế loại trừ được sự ảnh hưởng của chênh lệch
lạm phát giữa các nước và phản ánh đúng swsc mua và sức cạnh tranh của
một nước.
2. Sự hình thành tỷ giá hối đoái
a- Cầu về tiền trên thị trường ngoại hối
Có cầu về tiền của nước A trên thị trường ngoại hối khi dân cư từ các
nước khác mua hàng hoá và dịc vụ được sản xuất ra tại nước A. Một nước
xuất khẩu càng nhiều thì cầu đối với đồng tiền nước đó càng lớn trên thị
trường ngoịa hối.
Đường cầu về một loại tiền là hàm của tỷ giá hối đoái của nó xuống
dố phía bên phải, điều này cho thấy nếu tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng
hoá của nước ấy càng trở lên đắt hơn đối với những người n\ớc ngoài và ít
hàng hoá xuất khẩu hơn
3
b- Cung về tiền trên thị trường ngoại hối
Để nhân dân nước A mua được các sản phẩm sản xuất ra ở nước B
họ phải mua một lượng tiền đủ lớn của nước B, bằng việc dùng tiền nước A
để trả. Lượng tiền này của nước A khi ấy bước vào thị trường quốc tế.
Đường cung về tiền là một hàm của tỷ giá hối đoái của nó, dốc lên
trên về phía phải. Tỷ giá hối đoái càng cao thì hàng hoá nước ngoài càng rẻ
và hàng hoá ngoại được nhập khẩu ngày càng nhiều.
Các tỷ giá hối đoái được xác định chủ yếu thông qua các lực lượng
thị trường của cung và cầu. Bất kỳ cái gì làm tăng cầu về một đồng tiền
hoặc làm giảm cung của nó đều có xu hướng làm cho tỷ giá hối đoái tăng
lên. Bất kỳ cái gì làm giảm cầu về một đồng tiền hoặc làm tăng cung đồng
tiền ấy trên các thị trường ngoại hối sẽ hướng tới làm cho giá trị trao đổi
của nó giảm xuống ở hình vẽ dưới, ta thấy được tỷ gía hối đoái cân bằng Lo
của đồng Việt Nam và đồng USD Mỹ thông qua giao điểm S và D.
L USD
Đ
S
Lo
D
Qo Q(đ)
2. Phân loại tỷ giá hối đoái
Trong thực tế tuỳ từng nơi từng lúc khi quan tâm đến một khía cạnh
nào đó của tỷ gía hối đoái người ta thường gọi đến tên đến loại tỷ giá đó.
Do vậy cần thiết phải phân loại tỷ giá hối đoái.
Dựa vào những căn cứ khác nhau người ta chia ra nhiều loại tỷ giá
khác nhau:
a- Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được chia ra làm
hai loại
4
-Tỷ giá điện hối mà tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
-Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách
nhiệm chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)
b- Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái chia ra các
loại
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do nhà Nước công bố được hình thành
trên cơ sở ngang giá vàng.
-Tỷ giá tự do là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường do quan hệ
cung cầu qui định .
- Tỷ giá thả nổi là tỷ giá hình thành tự phát trên thị trường và nhà
nước không can thiệp vào sự hình thành và quản lý tỷ giá này.
- Tỷ giá cố định là tỷ giá không biến động trong phạm vi thời gian
nào đó.
c- Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá được chia ra các
loại:
- Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu
có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó việc
chuyển khoản ngoại hối không phải bằng tiền mặt, bằng cách chuyển khoản
qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc chuyển trả
ngoại hối bằng tiền mặt.
d- Căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại hối:
- Tỷ giá mở cửa: là tỷ giá vào đầu giờ giao dịch hay tỷ giá mau bán
ngoại hối của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: là tỷ giá vào cuối giờ giao dịch hay tỷ giá mua
bán ngoại hối của chuyến giao dịch cuối cùng trong ngày.
- Tỷ giá giao nhận ngay: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc giao
nhận ngoại hối sẽ được thực hiện chậm nhất trong 2 ngày làm việc.
- Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà việc
giao nhận ngoại hối sẽ được thực hiện theo thời hạn nhất định ghi trong
hợp đồng(có thể là 1,2,3 tháng sau).
5
e- căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối của ngân hàng tỷ giá
chia ra làm hai loại:
- Tỷ giá mua: là tỷ giá mà ngân hàng mua ngoại hối vào.
- Tỷg ía bán: là tỷ giá mà ngân hàng bán ngoại hối ra.
II- Những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ giá hối đoái:
1- Cán cân thương mại: trong các điều kiện khác không đổi nếu nhập
khẩu của một nước tăng thì đường cung về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển
về phía bên phải, tỷ giá hối đoái giảm xuống; nếu xuất khẩu tăng thì đường
cầu về tiền của nước ấy sẽ dịch chuyển sang trái tỷ giá hối đoái tăng lên.
2- Tỷ giá lạm phát tương đối: nếu tỷ lệ lạm phát của một nước cao
hơn tỷ lệ lạm phát của một nước khác thì nước đó sẽ cần nhiêù tiền hơn để
mua một lượng tiền nhất định của nước kia. Điều này làm cho cung tiền
dịch chuyển sang phải và tỷ giá hối đoái giảm xuống.
3- Sự vận động của vốn: khi người nước ngoài mua tài sản tài chính,
lãi suất có ảnh hưởng mạnh. Khi lãi suất của một nước tăng lên một cách
tương đối so với nước khác thì các tài sản của nó tạo ra tỷ lệ tiền lời cao
hơn và có nhiều người dân nước ngoài muốn mua tài sản ấy. Điều này làm
cho đường cầu về tiền của nước đó dịch chuyển sang phải và làm tăng tỷ
giá hối đoái của nó. Đây là một trong những ảnh hưởng quan trọng nhất tới
tỷ giá ở các nước phát triển cao.
4- Dự trữ, phương tiện thanh toán, đầu cơ: tất cả đều có thể làm dịch
chuyển đường cung và cầu tiền tệ. Đầu cơ có thể gây ra những thay đổi lớn
về tiền, đặc biệt trong điều kiện thông tin liên lạc hiện đại và công nghệ
máy tính hiện đại có thể trao ddổi hàng tỷ USD giá trị tiền tệ mỗi ngày.
Trên đây là 4 nguyên nhân cơ bản gây lên sự dịch chuyển đường
cung và cầu trên thị trường ngoại hối. Sự dịch chuyển này đến lượt nó sẽ
gây ra những dao động của tỷ giá hối đoái, và như vậy phản ứng dây
chuyền, những biến động của tỷ giá hối đoái lại tác động đến nền kinh tế
trong nước.
III- Tác động của tỷ giá hối đoái đến nền kinh tế
1-Thực trạng tác động của tỷ giá đối với các lĩnh vực tài chính, ngân
sách thời gian qua.
1.1-Thực trạng quan hệ giữa tỷ giá với ngân sách:
6
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp tới thu
chi ngân sách. Trước năm 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết
toán nội bộ, mức tỷ giá nhà nước công bố thường cố định trong thời gian
tương đối dài. ở thời điểm công bố mức tỷ giá thấp hơn nhiều so với mức
giá trên thị trường và tình hình sức mua của đồng tiền tính chung thời kỳ
1985-1988, 1rúp mua trên dưới 1.500VND hàng xuất khẩu, 1USD trên
dưới 3.000VND, trong khi đó tỷ giá kết toán nội bộ thanh toán trong quan
hệ xuất nhập khẩu giữu mức 150VND/Rúp và 225VND/USD. Nhìn chung
1Rúp hàng xuất khẩu phải bù lỗ 1.350VND và 1USD phải bù 2.775VND.
Kim ngạch xuất khẩu của năm 1987là 650 triệu R-USD trong đó khu vực
đồng Rúp 500 triệu và khu vực đồng USD 150 triệu, Ngân sách nhà nước
đã phải bù lỗ 900 tỷ. Đối với các ngành, các địa phương càng giao nhiều
hàng xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ với bạn, thì ngân sách nhà nước càng
phải bù lỗ nhiều. Ngân sách nàh nước không bù lỗ đủ hoặc chậm trễ trong
việc thanh toán thì công nợ giữa các doanh nghiệp và các ngành càng tăng
và càng thiếu vốn để tiếp tục kinh doanh. Đối với hàng nhập, thì khi vật tư
nguyên liệu thiết bị về nước nhà nước đứng ra phân phối cho các ngành
trong nền kinh tế quốc dân với mức giá thấp (phù hợp với mức tỷ giá 150
VNĐ/Rúp và 225VND/USD nêu trên). Như vậy, các ngành, các địa
phương được phân phối các loại vật tư,nguyên liệu đó thì được hưởng phần
giá thấp còn ngân sách nhà nước lại không thu được chênh lệch giá. Việc
thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán xuất - nhập khẩu và
bù lỗ hàng xuất khẩu đó là:
- Nếu thực hiện nghiêm trọng nghĩa vụ giao hàng xuất khẩu cho bạn
để có thể đưa hàng nhập về đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, thì
mức lỗ của ngân sách cho hàng xuất khẩu lớn gây trở ngại cho việc điều
hành ngân sách - Nếu trì hoãn cho việc thực hiện nghĩa vụ giao hàng xuất
khẩu nhưng trong khi đó vẫn yêu cầu bạn giao hàng nhập cho ta theo tiến
độ, thì việc bù lỗ hàng xuất khẩu được giảm ở mức độ nhất định, nhưng
nghĩa vụ nợ của ta với bạn lại tăng lên đáng kể.
Tỷ giá qui định thấp nên các tổ chức kinh tế và cá nhân có ngoại tệ
không bán ngoại tệ cho ngân hàng, vì làm như vậy sẽ bị mất lãi. Các tổ
chức đại diện nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài cũng không chuyển tiền
tài khoản ở ngân hàng ở chi tiêu mà thường đưa hàng từ nước ngoài vào
hoặc sử dụng ngoại tệ tiền mặt trực tiếp trên thị trường. Do đó cơ chế tỷ giá
của thời kỳ này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi, mua bán
trên thị trường trong nước. Thực tế này vừa gây thiệt hại về kinh tế cho
Nhà nước vừa làm phát sinh thêm những tiêu cực trong đời sống xã hội.
Đồng thời nó tác động trở lại tỷ giá kết toán nội bộ và làm cho tỷ giá giữa
đồng nội tệ giữa các đồng ngoại tệ diễn biến phức tạp thêm. Từ tình hình
trên cho thấy, trước năm 1989 tỷ giá hối đoái giữa đồng Việt Nam và ngoại
tệ do nhà nước qui định không tính đến biến động giá trên thị trường đang
7
bị trượt ngã nghiêm trọng, nên đã làm cho mức bù lỗ hàng xuất khẩu trong
ngân sách quá lớn, gây khó khăn trong việc điều hành và quản lý ngân sách
và thực hiện nghĩa vụ giao hàng mà ta đã cam kết với nước ngoài, ngoại tệ
bị rối loạn, Nhà nước không điều hành và quản lý được.
Tỷ giá hối đoái bị bóp méo so với thực tế đã khiến cho thu chi ngân
sách Nhà nước không phản ánh đúng nguồn thu từ nước ngoài và các
khoản cấp phát của ngân sách Nhà nước cho nền kinh tế quốc dân và cho
các hoạt động khác có sử dụng ngoại tệ.
Việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt Nam
so với ngoại tệ để kế hoạch hoá và ổn định kinh tế, nhưng thực chất là đẩy
xuất khẩu Việt Nam vào ngõ cụt, không khuyến khích sản xuất hàng xuất
khẩu và đẩy mạnh hàng xuất khẩu, hệ quả là cán cân thương mại bị nhập
siêu nghiêm trọng, ngân sách Nhà nước phải gánh chịu thêm các thua thiệt.
Khi buộc phải thả nổi và phá giá mạnh đã làm cho chi phí của các
doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm, do đó mức thu từ thuế
lợi tức của các tổ chức kinh tế cho ngân sách Nhà nước cũng bị ảnh hưởng.
Mặt khác, các khoản chi tiêu cho các cơ quan và tổ chức được Nhà nước
cấp cũng được tăng lên tương ứng với mức mất giá của đồng nội tệ. Tình
hình đó đã tác động đến yếu tố làm tăng bội chi ngân.
Từ năm 1989, cùng với các cải cách kinh tế, tài chính, tiền tệ, Nhà
nước đã bỏ chế độ tỷ giá trước đây (tỷ giá kết toán nội bộ) , giảm căn bản
bù lỗ cho hoạt động xuất - nhập khẩu và thực hiện chính sách giá sát với tỷ
giá thị trường. Ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức của VNĐ với
các ngoại tệ mạnh, nhất là với USD trên cơ sở đó các ngân hàng thương
mại xây dựng và công bố tỷ giá hàng ngày với biên độ chênh lệch cho phép
(khoảng 5%) so với tỷ giá chính thức.
Về mặt ngân sách Nhà nước, chính sách một tỷ giá hối đoái sát với
thị trường khiến cho việc tính toán thu chi Ngân sách Nhà nước phản ánh
trung thực và chính xác hơn, không bị bóp méo. Tỷ giá đó góp phần làm
cho công tác kế hoạch hoá vay nợ và trả nợ nước ngoài từ ngân sách Nhà
nước thuận lợi hơn và có cơ sở vững chắc hơn.
* Mặc dù có những thành công rất đáng kể trong lĩnh vực tỷ giá và
quản lý ngoại tệ, nhưng vẫn còn một số hạn chế đã làm ảnh hưởng không
tốt đến quản lý, điều hành ngân sách, đó là
- Nguồn ngoại tệ không được quản lý chặt chẽ, còn bị buông lỏng đã
khiến cho lực lượng ngoại tệ của Nhà nước tăng chậm và chưa tương xứng
với mức độ tăng của cán cân thương mại, một cơ sở của sự ổn định thu chi
ngân sách Nhà nước là quĩ ngoại tệ chưa được tăng cường.
8
- Vì tỷ giá hối đoái chính thức theo sát tỷ giá thị trường nếu không
ổn định thì không những ngân sách bị động mà việc tính toán thu chi Ngân
sách bằng ngoại tệ theo không kịp thời dẫn tới không sát với thực tế thị
trường, điều hành Ngân sách Nhà nước không tránh khỏi lúng túng, nhất là
trường hợp bị thiếu hụt khi trả nợ đến hạn đòi phải giải quyết.
1.2: Thực trạng quan hệ tỷ giá và nợ nước ngoài
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nước ngoài và công tác quản lý
nợ. Trước năm 1979, Việt Nam có sử dụng 20tỷ Yên Nhật tương đương 92
triệu USD (tỷ giá 216 Yên = 1USD). Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật mở
lại tín dụng với Việt Nam và cho Việt Nam vay 20 tỷ Yên, tương đương
159 triệu USD (tỷ giá 126 Yên= 1USD). Ngoài ra, vào thời điểm 1987 trở
về trước còn có các khoản vay các công ty của Nhật 20 tỷ Yên, tương
đương 125 triệu USD ( tỷ giá 160 Yên= 1USD). Đầu năm 1995, đồng Yên
lên giá, 1USD chỉ còn 90 Yên là như vậy, xét về góc độ tỷ giá thì trong thời
gian qua sự tăng giá của đồng Yên Nhật, đã làm tăng thêm gánh nặng nợ
gốc qui ra USD, làm thiệt thòi cho người đi vay.
Tương tự như tình hình trên, việc sử dụng vốn vay của các doanh
nghiệp ở nước ta liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó tỷ giá có tác động
mạnh đến khả năng thanh toán của các doanh nghiệp. Trong các năm 1989-
1990 có 81 doanh nghiệp vay nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả
với doanh số vay là 5722 triệu Yên là 10,9 triệu USD, tỷ giá lúc này là 130
Yên=1USD, do đó tổng vay nợ bằng đồng Yên quy ra USD là 44 triệu
USD. Đến năm 1995, do chưa trả được nợ mà đồng yên lại tăng giá, nên nợ
gốc vay tăng từ 44 triệu USD lên 58 triệu USD (chưa tính đến yếu tố lãi
suất tiền vay và tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD). Do tổng hợp nhiều
yếu tố, rong đó có yếu tố về tỷ giá, nên đại bộ phận trong số 81 doanh
nghiệp vay vốn theo phương thức này đều bị sức ép của cả hai loại tỷ giá.
- Tỷ giá giữa Yên và USD (đại bộ phận doanh số vay của các doanh
nghiệp kể trên là vay đồng Yên cuả các công ty Nhật trong khi đó đồng
Yên tăng giá).
- Tỷ giá giữa đồng Việt nam và USD (trong khi đó đồng Việt nam bị
giảm giá).
Sự biến động của tỷ giá cùng các với yếu tố ngoại hối, nhưng nó có ý
nghĩa đặc biệt riêng của nó đối với việc huy động vốn, thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, thu chi ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế và xã
hội. Ngược lại, vực nợ nước ngoài nếu không quản lý tốt và không sử dụng
có hiệu quả sẽ trở thành gánh năngk đối với nền kinh tế hiện tại và tương
lai, có khi còn ảnh hưởng đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia.
9
Về vay nợ chính phủ phải có quy chế chặt chẽ quy định được vay về
trách nhệm,nghĩa vụ và quyền hạn của các pháp nhân kinh tế và pháp nhân
công quyền trước các khỏan vay và khỏan trả nợ. Hiện nay chúng ta có qui
định Nhà nước vay Nhà nước trả, doanh nghiệp vay doanh nghiệp trả, Nhà
nước không gánh hộ nợ doanh nghiệp.
Thiếu vốn phải vay, nhưng không phải ai cho vay với điều kiện nào
cũng chấp nhận cả. Phải thấy rằng, nếu tỷ giá hối đoái đồng Việt Nam hạ,
đồng ngoại tệ tăng, thì khoản trả nợ của Ngân sách Nhà nước của doanh
nghiệp sẽ phải tăng , nhưng xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ lại có lợi, đó là
một bài toán khó, phải tính xem lợi ích do xuất khẩu mang lại cho phát
triển kinh tế có bù lại được thiệt hại của số tiền Ngân sách Nhà nước và
doanh nghiệp phải trả nợ cao hơn không?
Vì lẽ đó, chúng ta phải tỉnh táo đàm phán với các chủ nợ khi vay,
không thể chấp nhận bất cứ điều kiện nào và không thể không nghĩ đến
việc trả giá, đặc biệt phải chú trọng đến các vấn đề chính trị của các khoản
vay. Phải thấy được rằng các chủ nợ cho vay là để lấy lãi chứ không phải
làm việc nghĩa. Vấn đề là ơe chỗ làm thế nào để giải quyết hài hoà giữa lợi
ích của bên cho vay và bên vay. Việc quảnlý nợ khônghcỉ quy định trách
nhệm mà còn phải luôn chú ý tới hiệu quả sử dụng khoản vay. Vì vậy quản
lý đầu tư sử dụng các khoản vay cho các công trình, mục tiêu là một việc
có tầm quan trọng đặc biệt. Các cơ quan tài chính và ngân hàng phải đặc
biệt chú ý tới vấn đề này-vay cho mục tiêu nào được quản lý theo mục tiêu
đó.
Về viện trợ: viện trợ không hoàn lại không nhiều, nhưng cũng phải
được quản lý chặt chẽ. Những khoản viện trợ cuả nước ngoài cho chính
phủ và các cấp chính quyền phải được đưa vào ngân sách nhà nước để cân
đối và sử dụng, không hình thành quỹ riêng. Tuy các khoản này ngân sách
không phải trả lại nhưng là một nguồn khá quan trọng góp phần giải quyết
các vấn đè của đất nước.
Những khoản tài trợ của các tổ chức quốc tế và cá nhân cho các dự
án ngoài ngân sách và các tổ chức xã hội cũng phải được chuyển vào ngân
sách để quản lý và chỉ cấp ph