1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực 
chuẩn bị hành trang cho mình để đón nhận những cơ hội và thách thức do mở cửa 
mang lại. Với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương, hướng tới gia 
nhập WTO, một nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp 
cũng như sự phát triển của nền kinh tế, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh bởi cạnh 
tranh là đ ặc trưng vốn có của kinh tế thị trường và trong điều kiện hội nhập thì cạnh 
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào có sự chuẩn bị tốt về năng lực 
cạnh tranh sẽ nắm được quyền chủ động trên thị trường.
Theo cách của mình, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phấn đấu 
cho mục tiêu đó và đã đạt được những thành tích nhất định. Các doanh nghiệp Nhà 
Nước, trong đó có Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi đã 
không ngừng đổi mới bằng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tổ chức để nâng cao 
năng lực cạnh tranh. Song so với y êu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường, kết 
quả đạt được còn khiêm tốn. Là một trong những Tổng Công ty lớn của bộ Nông 
Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh để phát 
triển và thực hiện tốt những nhiệm vụ kinh tế - chính trị do Nhà Nước giao là mối 
quan tâm hàng đầu của Tổng Công ty.
Để tìm được câu trả lời cho vấn đề này cần có những nghiên cứu về lý luận 
và thực tiễn nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu. Trên tinh th ần đó tác giả chọn 
vấn đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng 
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi” làm đ ề tài nghiên cứu của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cạnh tranh kinh tế không còn là vấn đề mới mẻ với thế giới. Trong bộ “Tư bản” và 
những tác phẩm trước đó, Các Mác đã nói đến cơ sở ra đời và tồn tại của cạnh 
tranh, các tiêu thức phân loại, những mặt tích cực và tiêu cực của cạnh tranh. Vấn 
đề này cũng được Lê Nin nhắc đến khi phân tích giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc 
quy ền. Nhất là từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, các lý thuyết về cạnh tranh đã 
được phát triển thành những chiến lược cạnh tranh áp dụng trong quản lý kinh tế vĩ 
mô và vi mô ở nhiều quốc gia.
Ở Việt Nam, vấn đề này bắt đầu được nhắc đến nhiều khi Việt Nam chuyển
đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có một số 
cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này. 
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về cạnh tranh đã được công bố như: luận án 
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Dũng về đề tài “Cạnh tranh trong nền kinh tế thị 
trường ở Việt Nam” (2001), luận văn thạc sĩ về đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của 
hàng hóa Việt Nam nhằm thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả 
Bùi Văn Thành (2003). Nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh 
tranh của doanh nghiệp Việt Nam – nhân tố quan trọng trong hội nhập” của tiến sĩ 
Lê Đăng Doanh – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương (2003). Tác phẩm 
“Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế” của tác giả Chu Văn Cấp (2003), nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia – Hà 
Nội. Đề án phát triển Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 
từ năm 2001 đến 2010. Các nghiên cứu trên đã hệ thống được cơ sở lý luận về cạnh 
tranh và những kinh nghiệm thực tế quí báu. Tuy nhiên nghiên cứu dưới góc độ 
quản trị kinh doanh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng 
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi chưa được thực hiện. Tác giả mạnh dạn chọn đề tài 
nghiên cứu theo hướng này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng 
Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá những thành công 
đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng, từ đó chỉ ra định hướng và giải 
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty trong thời gian tới.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: 
Một là: Hệ thống hóa những cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của 
doanh nghiệp.
Hai là: Nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế và của các Tổng Công ty 
khác của Việt Nam, rút ra bài học về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ba là: Khảo sát các điều kiện về nguồn lực và hoạt động kinh doanh, những 
công cụ Tổng Công ty đang sử dụng trong cạnh tranh từ đó làm rõ năng lực cạnh 
tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá 
thành công, h ạn chế, nguy ên nhân thực trạng đó.
Bốn là: Đưa ra các đ ịnh hướng, tìm kiếm và đề xuất giải pháp hữu hiệu để 
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh 
của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi thuộc bộ Nông 
Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn.
- Phạm vi nghiên cứu: Lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty khá rộng gồm 
sản xuất sản phẩm cơ khí, xây dựng, thương mại. Trong phạm vi đề tài này, luận 
văn đi sâu nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là năng lực cạnh tranh của Tổng 
Công ty về các sản phẩm cơ khí xây lắp phục vụ nông nghiệp, thủy lợi và thủy điện.
Phạm vi thời gian: Luận văn chọn mốc thời gian từ năm 2003 đến nay. 
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh 
tế là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lôgíc và lịch 
sử, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp thống 
kê, so sánh định lượng nhằm tạo một phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng 
và mục tiêu nghiên cứu.
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN 
Về lý luận: Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh trong kinh 
tế thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó chỉ ra cách 
thức vận dụng các lý luận về cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các 
doanh nghiệp.
Về thực tiễn:
- Khái quát một số bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh 
tranh c ủa doanh nghiệp từ đó chỉ ra những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chiến 
lư ợc cạnh tranh cho doanh nghiệp.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn cho thấy một bức tranh toàn 
cảnh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp 
Và Thủy Lợi, những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 
cho Tổng Công ty.
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn 
được kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây 
Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của 
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 123 trang
123 trang | 
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2043 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty cơ điện xây dựng nông nghiệp và thủy lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
Luận văn 
Nâng cao năng lực cạnh tranh của 
Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng 
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 
 2 
MỞ ĐẦU 
1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam đang tích cực 
chuẩn bị hành trang cho mình để đón nhận những cơ hội và thách thức do mở cửa 
mang lại. Với việc thực hiện các cam kết song phương và đa phương, hướng tới gia 
nhập WTO, một nhân tố đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp 
cũng như sự phát triển của nền kinh tế, đó là nâng cao năng lực cạnh tranh bởi cạnh 
tranh là đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường và trong điều kiện hội nhập thì cạnh 
tranh ngày càng trở nên gay gắt. Doanh nghiệp nào có sự chuẩn bị tốt về năng lực 
cạnh tranh sẽ nắm được quyền chủ động trên thị trường. 
Theo cách của mình, một số doanh nghiệp Việt Nam cũng đang phấn đấu 
cho mục tiêu đó và đã đạt được những thành tích nhất định. Các doanh nghiệp Nhà 
Nước, trong đó có Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi đã 
không ngừng đổi mới bằng các biện pháp kinh tế, kỹ thuật và tổ chức để nâng cao 
năng lực cạnh tranh. Song so với yêu cầu của sự phát triển kinh tế thị trường, kết 
quả đạt được còn khiêm tốn. Là một trong những Tổng Công ty lớn của bộ Nông 
Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh để phát 
triển và thực hiện tốt những nhiệm vụ kinh tế - chính trị do Nhà Nước giao là mối 
quan tâm hàng đầu của Tổng Công ty. 
Để tìm được câu trả lời cho vấn đề này cần có những nghiên cứu về lý luận 
và thực tiễn nhằm tìm kiếm các giải pháp hữu hiệu. Trên tinh thần đó tác giả chọn 
vấn đề “Nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng 
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi” làm đề tài nghiên cứu của mình. 
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 
 Cạnh tranh kinh tế không còn là vấn đề mới mẻ với thế giới. Trong bộ “Tư bản” và 
những tác phẩm trước đó, Các Mác đã nói đến cơ sở ra đời và tồn tại của cạnh 
tranh, các tiêu thức phân loại, những mặt tích cực và tiêu cực của cạnh tranh. Vấn 
 3 
đề này cũng được Lê Nin nhắc đến khi phân tích giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc 
quyền. Nhất là từ thập kỷ 80 của thế kỷ 20 trở lại đây, các lý thuyết về cạnh tranh đã 
được phát triển thành những chiến lược cạnh tranh áp dụng trong quản lý kinh tế vĩ 
mô và vi mô ở nhiều quốc gia. 
 Ở Việt Nam, vấn đề này bắt đầu được nhắc đến nhiều khi Việt Nam chuyển 
đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đã có một số 
cuộc hội thảo, công trình nghiên cứu và các bài viết trên các tạp chí về vấn đề này. 
Một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về cạnh tranh đã được công bố như: luận án 
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Quốc Dũng về đề tài “Cạnh tranh trong nền kinh tế thị 
trường ở Việt Nam” (2001), luận văn thạc sĩ về đề tài “Nâng cao sức cạnh tranh của 
hàng hóa Việt Nam nhằm thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế” của tác giả 
Bùi Văn Thành (2003). Nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh 
tranh của doanh nghiệp Việt Nam – nhân tố quan trọng trong hội nhập” của tiến sĩ 
Lê Đăng Doanh – Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế trung ương (2003). Tác phẩm 
“Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế 
quốc tế” của tác giả Chu Văn Cấp (2003), nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia – Hà 
Nội. Đề án phát triển Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi 
từ năm 2001 đến 2010. Các nghiên cứu trên đã hệ thống được cơ sở lý luận về cạnh 
tranh và những kinh nghiệm thực tế quí báu. Tuy nhiên nghiên cứu dưới góc độ 
quản trị kinh doanh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng 
Nông Nghiệp Và Thủy Lợi chưa được thực hiện. Tác giả mạnh dạn chọn đề tài 
nghiên cứu theo hướng này. 
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 
- Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng 
Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá những thành công 
đã đạt được, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng, từ đó chỉ ra định hướng và giải 
pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty trong thời gian tới. 
- Nhiệm vụ nghiên cứu: 
 4 
Một là: Hệ thống hóa những cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của 
doanh nghiệp. 
Hai là: Nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế và của các Tổng Công ty 
khác của Việt Nam, rút ra bài học về nâng cao năng lực cạnh tranh. 
Ba là: Khảo sát các điều kiện về nguồn lực và hoạt động kinh doanh, những 
công cụ Tổng Công ty đang sử dụng trong cạnh tranh từ đó làm rõ năng lực cạnh 
tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi, đánh giá 
thành công, hạn chế, nguyên nhân thực trạng đó. 
Bốn là: Đưa ra các định hướng, tìm kiếm và đề xuất giải pháp hữu hiệu để 
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty. 
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu năng lực cạnh tranh 
của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi thuộc bộ Nông 
Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn. 
- Phạm vi nghiên cứu: Lĩnh vực hoạt động của Tổng Công ty khá rộng gồm 
sản xuất sản phẩm cơ khí, xây dựng, thương mại. Trong phạm vi đề tài này, luận 
văn đi sâu nghiên cứu lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là năng lực cạnh tranh của Tổng 
Công ty về các sản phẩm cơ khí xây lắp phục vụ nông nghiệp, thủy lợi và thủy điện. 
Phạm vi thời gian: Luận văn chọn mốc thời gian từ năm 2003 đến nay. 
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu truyền thống của khoa học kinh 
tế là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa lôgíc và lịch 
sử, phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp thống 
kê, so sánh định lượng nhằm tạo một phương pháp tiếp cận phù hợp với đối tượng 
và mục tiêu nghiên cứu. 
6. DỰ KIẾN ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN 
 5 
Về lý luận: Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản về cạnh tranh trong kinh 
tế thị trường và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó chỉ ra cách 
thức vận dụng các lý luận về cạnh tranh để nâng cao năng lực cạnh tranh cho các 
doanh nghiệp. 
Về thực tiễn: 
 - Khái quát một số bài học kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh 
tranh của doanh nghiệp từ đó chỉ ra những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chiến 
lược cạnh tranh cho doanh nghiệp. 
 - Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn cho thấy một bức tranh toàn 
cảnh về năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp 
Và Thủy Lợi, những điểm mạnh, điểm yếu và nguyên nhân của thực trạng đó. 
 - Đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh 
cho Tổng Công ty. 
7. KẾT CẤU LUẬN VĂN: 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn 
được kết cấu gồm ba chương: 
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. 
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Cơ Điện Xây 
 Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi. 
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của 
 Tổng Công ty Cơ Điện Xây Dựng Nông Nghiệp Và Thủy Lợi. 
 6 
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NĂNG LỰC 
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP 
1.1. CẠNH TRANH VÀ SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH 
TRANH CỦA DOANH NGHIỆP 
 Kinh tế thị trường được xem là nền kinh tế năng động nhất, mang lại nhiều 
thành tựu đóng góp cho sự phát triển của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường vận 
động dưới sự tác động tổng hợp của các quy luật kinh tế khách quan, trong đó phải 
kể đến quy luật cạnh tranh. Quy luật này đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự thích 
nghi với những biến chuyển của nền kinh tế để tồn tại và phát triển. Cạnh tranh đã, 
đang và sẽ là vấn đề được quan tâm nghiên cứu cả trên lý luận và trong thực tiễn 
nhằm vận dụng ngày càng hiệu quả quy luật này phục vụ cho sự phát triển của mỗi 
doanh nghiệp, mỗi quốc gia. 
1.1.1. Khái niệm và phân loại cạnh tranh 
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh 
 Cạnh tranh là một thuật ngữ đã được sử dụng từ khá lâu song trong những 
năm gần đây được nhắc đến nhiều hơn, nhất là ở Việt Nam. Bởi trong nền kinh tế 
mở hiện nay, khi xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng phổ biến thì cạnh tranh 
là phương thức để đứng vững và phát triển của doanh nghiệp. Nhưng “cạnh tranh là 
gì” thì vẫn đang là một khái niệm chưa thống nhất, các nhà nghiên cứu đưa ra các 
khái niệm cạnh tranh dưới nhiều góc độ khác nhau. 
 Theo diễn đàn cấp cao về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức Hợp tác và 
Phát triển Kinh tế OECD: “Cạnh tranh là khả năng các doanh nghiệp, ngành, quốc 
gia và vùng tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong điều kiện cạnh tranh quốc 
tế”. Định nghĩa trên đã cố gắng kết hợp cả hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp, 
của ngành và quốc gia. 
 Ủy ban Cạnh tranh Công nghiệp của Tổng thống Mỹ đưa ra khái niệm cạnh 
tranh đối với một quốc gia như sau: “Cạnh tranh đối với một quốc gia thể hiện trình 
độ sản xuất hàng hóa dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc tế, đồng 
 7 
thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của nhân dân nước đó trong những 
điều kiện thị trường tự do và công bằng xã hội” [3]. Trong định nghĩa này người ta 
đề cao vai trò của các điều kiện cạnh tranh là “tự do và công bằng xã hội”. 
 Như vậy, xét trên góc độ vĩ mô các khái niệm về cạnh tranh đều cho thấy 
mục tiêu chung của hoạt động cạnh tranh là thỏa mãn tối đa nhu cầu thị trường 
trong nước và quốc tế, tạo việc làm và thu nhập cao cho nền kinh tế. 
 Các nhà kinh tế của trường phái tư sản cổ điển quan niệm: “Cạnh tranh là 
một quá trình bao gồm các hành vi phản ứng. Quá trình này tạo ra cho mỗi thành 
viên thị trường một dư địa hoạt động nhất định và mang lại cho mỗi thành viên một 
phần xứng đáng so với khả năng của mình”. Theo quan niệm này cạnh tranh chủ 
yếu là cạnh tranh về giá, vì thế lý thuyết giá cả gắn chặt với lý thuyết cạnh tranh. 
 Khi nghiên cứu về cạnh tranh tư bản chủ nghĩa, Mác cũng đã đưa ra khái 
niệm về cạnh tranh: “Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa 
các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ 
hàng hóa nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch” [21]. Như vậy cạnh tranh là hoạt động của 
các doanh nghiệp trong nền sản xuất hàng hóa với mục đích ganh đua, giành giật 
những điều kiện thuận lợi tronh sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận cao. 
 Kế thừa những tính hợp lý và khoa học của các quan niệm về cạnh tranh 
trước đây, luận văn cho rằng để đưa ra một khái niệm đầy đủ cần chỉ ra được chủ 
thể cạnh tranh, tính chất, phương thức và mục đích của quá trình cạnh tranh. Theo 
đó chúng ta có thể quan niệm “ cạnh tranh là một quá trình kinh tế mà ở đó các chủ 
thể kinh tế (quốc gia, ngành hay doanh nghiệp) ganh đua với nhau để chiếm lĩnh thị 
trường, giành lấy khách hàng cùng các điều kiện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm có 
lợi nhất nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận”. 
 Như vậy về bản chất, cạnh tranh là mối quan hệ giữa người với người trong 
việc giải quyết lợi ích kinh tế. Bản chất kinh tế của cạnh tranh thể hiện ở mục đích 
lợi nhuận và chi phối thị trường. Bản chất xã hội của cạnh tranh bộc lộ đạo đức kinh 
doanh và uy tín kinh doanh của mỗi chủ thể cạnh tranh trong quan hệ với những 
người lao động trực tiếp tạo ra tiềm lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và trong mối 
quan hệ với người tiêu dùng và đối thủ cạnh tranh khác. 
 8 
Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó chịu 
nhiều chi phối của quan hệ sản xuất giữ vị trí thống trị trong xã hội, nó có quan hệ 
hữu cơ với các quy luật kinh tế khác như quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, 
quy luật cung cầu…, đây là một đặc trưng gắn với bản chất của cạnh tranh. Quy luật 
cạnh tranh chỉ ra cách thức làm cho giá trị cá biệt thấp hơn giá trị xã hội, do đó nó 
làm giảm giá cả thị trường, nó tạo ra sức ép làm gia tăng hiệu quả sử dụng các yếu 
tố sản xuất, nó chỉ ra ai là người sản xuất kinh doanh thành công nhất. 
1.1.1.2. Phân loại cạnh tranh 
* Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường. 
 - Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất 
nhiều người bán và người mua, mỗi người bán chỉ cung ứng một lượng hàng rất nhỏ 
trong tổng cung của thị trường. Họ luôn luôn bán hết số hàng mà họ muốn bán với 
giá thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cũng 
không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn có 
thể tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin đều 
đầy đủ và không có hiện tượng cung cầu giả tạo. Khi chi phí biên của doanh nghiệp 
giảm xuống bằng với giá thị trường doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa. 
 - Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà mỗi doanh 
nghiệp đều có sức mạnh thị trường (dù nhiều hay ít), họ có quyền quyết định giá 
bán của mình, qua đó tác động đến giá cả thị trường. 
 + Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường có 
nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay 
thế cho nhau ở một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất 
lượng, kiểu dáng, quảng cáo thương hiệu, uy tín … các doanh nghiệp cố gắng khác 
biệt hóa sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Trong thị trường 
này, bên cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược giá cả và chính 
sách đối với khách hàng là các vấn đề mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm để đảm bảo 
khả năng cạnh tranh. 
 + Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng 
lớn bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toàn 
 9 
bộ lượng cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong 
tập đoàn có tính phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng 
đều ảnh hưởng trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy họ 
thường cấu kết với nhau để thu lợi nhuận siêu ngạch. 
 Nguyên nhân sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là do quá 
trình phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy quá trình 
tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế khác 
nhau. Mặc dù vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất 
phát triển, nó làm lợi cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại. 
 - Độc quyền hoàn toàn là hình thái thị trường đối lập với cạnh tranh hoàn 
hảo. Chỉ có một người bán (hoặc mua) duy nhất trên thị trường, hàng hóa là độc 
nhất và không có hàng thay thế gần gũi nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn. 
Doanh nghiệp độc quyền luôn quyết định giá và sản lượng sao cho thu được lợi 
nhuận siêu ngạch. Nguyên nhân của độc quyền là do họ đạt được lợi thế kinh tế nhờ 
quy mô (độc quyền tự nhiên), hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào… 
Độc quyền luôn có những tác động xấu đến kinh tế xã hội như sản lượng bán thấp 
(không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho xã hội), giá quá cao và gây mất công 
bằng xã hội. ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm đảm bảo các lợi ích kinh 
tế xã hội. 
* Căn cứ chủ thể tham gia thị trường: Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu 
thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích cho những chủ thể tham gia cạnh tranh. 
 - Cạnh tranh giữa người bán và người mua với đặc trưng nổi bật là người 
mua luôn muốn mua rẻ và người bán luôn muốn bán đắt. Hai lực lượng này hình 
thành hai phía cung cầu trên thị trường. Kết quả sự cạnh tranh trên là hình thành giá 
cân bằng của thị trường, đó là giá mà cả hai phía đều chấp nhận được. 
 - Cạnh tranh giữa những người mua là sự cạnh tranh do ảnh hưởng của 
quy luật cung cầu. Khi lượng cung một hàng hóa quá thấp so với lượng cầu làm cho 
người mua phải cạnh tranh nhau để mua được hàng hóa mà mình cần dẫn tới giá cả 
tăng vọt. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất 
 10
thêm một số tiền. Như vậy sự cạnh tranh này làm cho người bán được lợi và người 
mua bị thiệt. 
 - Cạnh tranh giữa những người bán là sự cạnh tranh nhằm tăng sản lượng 
bán. Do sản xuất ngày càng phát triển, thị trường mở cửa, lượng cung tăng nhanh 
trong khi lượng cầu tăng chậm dẫn tới người bán (các doanh nghiệp) phải cạnh 
tranh khốc liệt để giành thị trường và khách hàng. Kết quả là giá cả không ngừng 
giảm xuống và người mua được lợi. Doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh 
này mới có thể tồn tại và phát triển. 
* Căn cứ cấp độ cạnh tranh: Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản 
xuất. 
 - Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, 
chất lượng, giá cả, phương thức bán hàng … Sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu 
cầu của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu 
kỳ sống của sản phẩm và tạo cơ hội thu thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp. 
 - Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (cạnh tranh nội bộ 
ngành) là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa 
nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, doanh 
nghiệp nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ 
thu lợi nhuận siêu ngạch. Các doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến 
kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nâng 
cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh 
tranh cao sẽ cạnh tranh thắng lợi trong ngành. 
Như vậy cạnh tranh nội bộ ngành làm giảm chi phí sản xuất và giá cả hàng 
hóa, là động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ kỹ thuật. Không 
có cạnh tranh nội bộ ngành thì ngành đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị trì trệ. 
 - Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản 
xuất ở các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. Giữa các ngành kinh 
tế, do điều kiện tự nhiên, kỹ thuật và một số nhân tố khách quan khác (như tâm lý, 
thị hiếu, kỳ vọng, mức độ quan trọng,…) nên cùng với một lượng vốn, đầu tư vào 
ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Nhà sản xuất ở 
 11
những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng di chuyển nguồn lực sang 
những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là trong những ngành có thêm nhiều 
doanh nghiệp tham gia lượng cung tăng vượt quá cầu, giá giảm dẫn tới tỷ suất lợi 
nhuận của ngành giảm. Ngược lại, những ngành có nhiều doanh nghiệp rút lui sẽ có 
lượng cung nhỏ hơn lượng cầu, giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành lại tăng. 
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất 
lợi nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào 
cũng sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân. 
Như vậy cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự cân bằng cung cầu sản phẩm 
trong mỗi ngành và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc 
đầu tư vốn giữa các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển. 
 - Cạnh tranh giữa các quốc gia: Là các hoạt động nhằm duy trì và cải 
thiện vị trí của nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài dể thu 
được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực 
tiếp tham gia cạnh tranh là các doanh nghiệp. Nên nếu quốc gia nào có nhiều 
doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó cũng có năng lực cạnh 
tranh tốt hơn. 
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh 
Từ thế kỷ 18, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ ra 
vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc” 
(1776). Ông cho rằng sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm công 
việc của mình một cách chính xác và do đó nó tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Kết quả 
của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố sản xuất một 
cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Cho tới nay, cạnh tranh được coi là phương 
thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, không có cạnh tranh 
thì không thể có sự tăng trưởng kinh tế. 
 Vai trò của cạnh tranh được thể hiện ở hai mặt tích cực và hạn ch