Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN)
khác được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng,nhận thức của các
Đảng va Nhà Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH.Ở
Việt Nam,từ sau những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự
chỉ là một khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một
đất nước.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển
vượt bậc.Từ một nước nghèo đói vathiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào
các khoản viện trợ,trợ giúp của các nước khác,Việt Nam đã trở thành một nước
xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-Nông Nghiệp và Dịch Vụ đã đạt được những thành quả đáng kể,đời sống của nhân
dân được cải thiện vv.Có được sự phát triển đó,như trên đã nêu,chính là nhờ sự
đổi mới trong nhận thức,tư duy về CNXH và con đường
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới
trong nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng như sự
đánh giá lại vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng
.Đảng và Nhà Nước ta đã khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và
vai trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm
đưa Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xây
dựng thành công CNXH.
43 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2290 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Nguồn gốc
và bản chất của lợi nhuận
1
LỜI NÓI ĐẦU
Sự phát triển của Việt Nam cũng như của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN)
khác được đánh dấu bằng sự chuyển hướng trong tư tưởng,nhận thức của các
Đảng va Nhà Nước về Chủ Nghĩa Xã Hội(CNXH) và con đường đi lên CNXH.Ở
Việt Nam,từ sau những năm đổi mới đến nay mới chỉ có hơn 15 năm,đó thực sự
chỉ là một khoảng thời gian rất ngắn so với lịch sử phát triển của một dân tộc,một
đất nước.
Tuy nhiên,trong 15 năm đó,Việt Nam đã có những sự thay đổi và phát triển
vượt bậc.Từ một nước nghèo đói va thiếu ăn quanh năm,luôn phải trông chờ vào
các khoản viện trợ,trợ giúp của các nước khác,Việt Nam đã trở thành một nước
xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới (sau Thái Lan).Các nghành sản xuất Công-
Nông Nghiệp và Dịch Vụ đã đạt được những thành quả đáng kể,đời sống của nhân
dân được cải thiện vv...Có được sự phát triển đó,như trên đã nêu,chính là nhờ sự
đổi mới trong nhận thức,tư duy về CNXH và con đường
đi lên CNXH .Trong số những nhận thức đó,đặc biệt quan trọng,là sự đổi mới
trong nhận thức về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận nói chung cũng như sự
đánh giá lại vai trò của lợi nhuận trong công cuộc xây dựng CNXH nói riêng
.Đảng và Nhà Nước ta đã khẳng
định rằng chỉ dựa trên cơ sở có những hiểu biết đúng đắn về nguồn gốc,bản chất và
vai trò của lợi nhuận thì chúng ta mới có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển,sớm
đưa Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như xây
dựng thành công CNXH.
Vậy thì lợi nhuận là gì?Nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận?Vai trò của lợi nhuận
trong việc phát triển nền kinh tế là như thế nào?Những câu hỏi nay không phải dến
bây giờ mới được đặt ra mà từ rất lâu rồi con người đã có nhiều những quan điểm
khác nhau về lợi nhuận.Từ những quan điểm của các trường phái lý luận trước
Mác cho đến những trường phái lý luận ngày nay,mỗi trường phái đều có những
luận điểm,học thuyết của mình để trả lời những câu hỏi đó.Trong số những quan
2
điểm đó,học thuyết của Chủ Nghĩa Mác(CN Mác),được xây dựng trên nền tảng lý
luận giá trị thặng dư(GTTD),đã giải thích được một cách đầy đủ,chính xác và khoa
học nhất về nguồc gốc,bản chất và vai trò của lợi nhuận.Chính vì vậy mà toàn bộ
học thuyết của CN Mác nói chung và những lý luận về lợi nhuận của CN Mác nói
riêng đã được Đảng ta coi là cơ sở lý luận quan trọng trong công cuộc xây dựng
CNXH ở nước ta.
Hơn nữa,do những hạn chế về mặt lịch sử cho nên dù các học thuyết này có
đúng đến mấy cũng luôn đòi hỏi phải được vận dụng một cách hợp lý vào điều
kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia .Chính vì vậy mà đề án này,không chỉ phân tích
nguồn gốc,bản chất của lợi nhuận trong quan điểm của một số các trường phái từ
trước đến nay,đặc biệt là học thuyết của Mác , xem xét tới vai trò của lợi nhuận
như là một động lực cơ bản của nền kinh tế thị trường(KTTT) mà còn xem xét tới
quá trình vận dụng lý luận vào thực tiễn ở nước ta để thấy được rõ nét hơn vai trò
động lực của lợi nhuận.
Trong phạm vi cho phép của bàiviết và do hiểu biết còn hạn chế nên bài viết
này khó tránh khỏi những sai sót .Vì vậy,em rất mong nhận được sự chỉ dẫn,giúp
đỡ của thầy giáo để em có được những nhận thức đúng đắn hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
3
PHẦN I : Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận
I/ Quan điểm về lợi nhuận trong các học thuyết phi Mác-xít:
1/Quan điểm của trường phái Trọng Thương về lợi nhuận:
Về mặt hoàn cảnh lịch sử,Chủ Nghĩa Trọng Thương(CNTT) được ra đời vào
thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của giai cấp tư bản.Ở giai đoạn này,vấn đề được quan
tâm hàng đầu và mang một ý nghĩa cực kỳ quan trọng đó là tiền.Mọi cá nhân,mọi
tổ chức,thậm chí là mọi quốc gia đều tìm mọi cách để tích trữ thật nhiều tiền,như
nhận xét của Engels sau này thì
"các dân tộc chống đối nhau như những kẻ bủn xỉn,hai tay ôm khư khư túi tiền quí
báu, nhìn sang người láng giềng với con mắt ghen tỵ,đa nghi".
Do được hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử như vậy cho nên toàn bộ học
thuyết của CNTT nói chung và quan điểm về lợi nhuận nói riêng đều được xây
dựng trên cơ sở đồng nhất giá trị với tiền bạc và lấy đối tượng nghiên cứu của
Kinh Tế Chính Trị(KTCT) là lĩnh vực lưu thông,coi KTCT "là khoa học về của cải
thương mại mà nhiệm vụ của nó là bán nhiều mua ít".Chính vì vậy,CNTT cho
rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông,do sự mua bán trao đổi mà sinh ra.Nó là
kết quả của việc mua ít bán nhiều ,mua rẻ bán đắt mà có.Họ cho rằng muốn có
đượclợi nhuận thì không có cách nào khác ngoài việc trao đổi buôn bán.
Về vai trò của lợi nhuận thì CNTT đã khẳng định rằng lợi nhuận luôn là mục
tiêu của mọi hoạt động trao đổi mua bán trên thị trường.Điều này được thể hiện
qua việc một quốc gia phải luôn đảm bảo xuất siêu như Thomas Mun đã viết:"
Chúng ta phải thường xuyên giữ vững nguyên tắc là hàng năm bán cho người
nước ngoài với số lượng hàng hoá lớn hơn số lượng chúng ta phải mua của
họ".Còn đối với các thương nhân thì mục tiêu của họ luôn là mua rẻ bán đắt nhằm
thu được phần lợi nhuận chênh lệch.
Nhìn chung thì các quan điểm về lợi nhuận của CNTT,cũng như các quan điểm
khác của họ,chưa có được sự nhận thức,phân tích mang tính khoa học sâu sắc
,chưa mang tính quy luật.Tuy nhiên,các quan điểm này cũng đóng vai trò khá quan
trọng, làm tiền đề cho các học thuyết kinh tế sau này.
2/Quan điểm của trường phái Tư Sản Cổ Điển về lợi nhuận:
Có thể nói rằng,trong giai đoạn trước Mác,trường phái Tư Sản Cổ Điển(TSCĐ)
là trường phái tiến bộ nhất.Đây cũng là một trong ba trường phái được Mác chọn
làm tiền đề lý luận cho học thuyết của mình.Sở dĩ trường phái TSCĐ được đánh
giá cao như vậy là do đây là trường phái đầu tiên chuyển đối tượng nghiên cứu của
KTCT từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất.Đó cũng là lần đầu tiên các
nhà kinh tế học không dừng lại ở việc nghiên cứu,xem xét hiện tượng bên ngoài
mà đã sử dụng phương pháp trừu tượng hoá khoa học để đi sâu vào nhận
thức,phân tích nhằm tìm ra bản chất và tính quy luật của các sự vật,hiện tượng
đồng thời xây dựng một hệ thống các phạm trù như giá trị,giá cả,lợi nhuận vv...
4
Được hình thành trong giai đoạn đầu của Chủ Nghĩa Tư Bản(CNTB),trường
phái TSCĐ đã có một số những đại biểu kiệt xuất như
W.Petty,A.Smith,D.Ricardo,vv...Quan điểm của các đại biểu này về lợi nhuận vừa
mang tính kế thừa người đi trước vừa mang tính sáng tạo mà trong đó có một số
quan điểm nổi bật về lợi nhuận cuả phái Trọng Nông,A.Smith hay D.ricardo mà ta
sẽ xem xét sau đây.
Trước tiên là phái Trọng Nông,mặc dù thừa nhận quy luật giá trị tuy nhiên họ
lại cho rằng chỉ có lao động trong nông nghiệp mới tạo ra giá trị,tạo ra cái mà họ
gọi là sản phẩm thuần tuý còn lao động trong các nghành nghề khác như trong
công nghiệp hay thương nghiệp thì không tạo ra giá trị.Sở dĩ như vậy,theo họ giải
thích,là do trong nông nghiệp ngoài sức lao động của chính mình ra thì người
nông dân còn được sự trợ giúp của thiên nhiên.Vì vậy mà lợi nhuận,theo quan
điểm của họ,chính là phần thu nhập không lao động của nhà tư bản do người nông
dân tạo ra.Ở đây,mặc dù còn hạn chế khi cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp
mới tạo ra sản phẩm thuần tuý tuy nhiên trường phái Trọng Nông đã có một đóng
góp quan trọng đó là bước đầu tìm ra nguồn gốc của cái gọi là sản phẩm thuần
tuý,xét về bản chất chính là GTTD.Ngoài ra,trong lý luận của phái Trọng Nông,đã
xuất hiện những mầm mống tư tưởng về lợi nhuận bình quân và xu hướng giảm
sút của tỷ suất lợi nhuận.
Đến A.Smith,người được coi là đại biểu của trường phái TSCĐ trong thời kỳ
công trường
thủ công,thì đã có những bước tiến đáng kể về lý luận so với phái Trọng
Nông.Ông khẳng định rằng không chỉ lao động trong nông nghiệp mà tất cả mọi
hình thức lao động khác cũng đều tạo ra giá trị và lao động chính là thước đo của
giá trị.Dựa trên quan điểm đúng đắn về giá trị lao động,A.Smith đã đưa ra những
lý luận của mình về lợi nhuận.Ông cho rằng phần giá trị mà người lao động tạo ra
được phân chia thành tiền lương trả cho người lao động,địa tô trả cho địa chủ và
lợi nhuận trả cho nhà tư bản.Nói như vậy có nghĩa là nếu như ta coi địa tô là khoản
khấu trừ thứ nhất thì lợi nhuận chính là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của
người lao động và chúng đều có chung một nguồn gốc là lao động không dược trả
công của người lao động.Xét về mặt lượng thì địa tô và lợi nhuận chính là những
khoản dôi ra ngoài tiền lương của người lao động còn xét về mặt chất thì chúng
phản ánh quan hệ bóc lột của tư bản và địa chủ đối với người lao động.Ông chỉ rõ
rằng " Khi sở hữu TBCN xuất hiện,người công nhân trở thành lao động làm thuê
thì tiền lương của họ không phải là toàn bộ giá trị sản phẩm lao động của họ sản
xuất ra nữa,mà chỉ là một bộ phận của giá trị đó".Ngoài ra,A.Smith cũng đã thấy
được xu hướng bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và xu hướng tỷ suất lợi nhuận
giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
D.Ricardo đã kế thừa một cách xuất sắc những tư tưởng của A.Smith.Là người
sống trong thời kỳ diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp nên D.Ricardo đã có được
những điều kiện khách quan để tiếp tục phát triển học thuyết của A.Smith.Về lợi
nhuận,D.Ricardo cho rằng lợi nhuận là số còn lại ngoài tiền lương mà nhà tư bản
trả cho người công nhân.Tiến bộ hơn A.Smith,Ricardo không những đã thấy được
5
xu hướng giảm sút của tỷ suất lợi nhuận bình quân mà còn giải thích được nguyên
nhân của sự giảm sút là do sự vận động , biến đổi của thu nhập giữa ba giai cấp địa
chủ,công nhân và nhà tư bản.Ông giải thích rằng do trong nông nghiệp có tồn tại
quy luật màu mỡ của đất đai ngày càng giảm,vì vậy,giá cả của nông phẩm sẽ ngày
càng tăng lên làm cho tiền công của công nhân và địa tô của địa chủ cũng tăng lên
trong khi lợi nhuận của nhà tư bản thì không tăng theo.Do vậy mà tỷ suất lợi
nhuận sẽ ngày càng giảm xuống,gây thiệt hại cho nhà tư bản.Tuy nhiên, đây chỉ là
những luận giải được thiết lập trên cơ sở những quan sát bên ngoài sự vật,hiện
tượng chứ không hề mang tính khoa học.Chỉ đến khi Chủ Nghĩa Mác-Lênin(CN
M-L) xuất hiện,với việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả
biến,mới giải thích được đúng đắn quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
dần.
Trên đây,chúng ta đã xét tới một số trường phái lý luận trước Mác,các trường
phái này đều là các trường phái có những quan điểm tiến bộ ,về lợi nhuận nói
riêng và về các phạm trù kinh tế học khác nói chung,đặc biệt là trường phái
TSCĐ.Những quan điểm này đều đã đạt được những thành tựu nhất định mặc dù
vẫn còn rất nhiều hạn chế.Sở dĩ như vậy là do các học thuyết này phát sinh vào
giai đoạn đầu mới hình thành của CNTB , lúc này mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân và giai cấp tư sản chưa gay gắt lắm còn mâu thuẫn cơ bản của xã hội lúc bấy
giờ là mâu thuẫn giữa tư sản và địa chủ.Hơn nữa,vào lúc đó,chưa có một học
thuyết nào,đứng về phe giai cấp công nhân,được hình thành để giải quyết mâu
thuẫn giữa giai cấp công nhân và chủ tư bản.Chính vì vậy cho nên các nhà lý luận
của giai cấp tư bản mới có thể đưa ra các học thuyết ít nhiều còn mang tính khoa
học.
Tuy nhiên,trong giai đoạn sau của CNTB,sự phát triển của CNTB đã bắt đầu
bộc lộ ngày càng rõ nét những mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư
sản.Đã bắt đầu có những xung đột ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa hai giai
cấp được thể hiện qua các hiện tượng xã hội như khủng hoảng,thất nghiệp,sự phá
sản của sản xuất nhỏ hay quá trình bần cùng hoá giai cấp vô sản vv...Các phong
trào đấu tranh của công nhân bùng nổ ngày càng nhiều.Đặc biệt là từ sau khi xuất
hiện CN M-L ,với vai trò như một lý luận chỉ đường cho giai cấp công nhân,chỉ ra
sứ mệnh lịch sử của họ trong việc xoá bỏ và thay thế PTSX TBCN bằng một
PTSX tiến bộ hơn,PTSX XHCN ,thì sức ép lên giai cấp tư sản ngày càng
tăng.Chính vì vậy,trong giai đoạn này,các nhà lý luận của giai cấp tư bản đã ra sức
xuyên tạc,bẻ cong những lú luận đúng đắn trước kia và đưa ra những lý luận sai
lầm nhằm giải thích các hiện tượng xã hội kể trên với mục đích che dấu bản chất
bóc lột của CNTB.Do đó
các học thuyết hình thành trong thời kỳ này nói chung và các lý luận về lợi nhuận
nói riêng không còn mang tính khoa học nữa.Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số
trường phái như vậy,trên cơ sở phân tích các lý luận về lợi nhuận để thấy rõ bản
chất phi khoa học của các học thuyết này.
3/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Hậu Cổ Điển:
6
Trường phái Hậu Cổ Điển(HCĐ),mặc dù xuất hiện ngay sau trường phái TSCĐ
nhưng các nhà lý luận của trường phái HCĐ lại hoàn toàn xa rời những lý luận cuả
trường phái TSCĐ.Họ rời bỏ phương pháp trừu tượng hoá khoa học,không đi sâu
vào phân tích bản chất của sự vật,hiện tượng mà chỉ xem xét hời hợt bên
ngoài.Đặc biệt là họ đã áp dụng phương pháp tâm lý chủ quan trong phân tích kinh
tế,"coi KTCT là khoa học nghiên cứu về đạo đức xã hội".Hơn nữa,họ lại xa rời lý
thuyết về giá trị lao động và đưa ra các lý luận về giá trị ích lợi hay giá trị các
nhân tố sản xuất vv...Ta có thể thấy được điều đó qua các học thuyết của một số
đại diện tiêu biểu cho trường phái này như R.Malthus và J.B.Say.
Đối với Malthus,trên cơ sở quan điểm sai lầm của A.Smith về giá trị,ông đã
phát triển lên và cho rằng:"Giá trị của hàng hoá do lao động mà hàng hoá đó có
thể mua được bằng những chi phí để sản xuất ra nó.Các chi phí này bao gồm chi
phí về lao động sống,chi phí về lao động vật hoá cộng với lợi nhuận tư bản ứng
trước".Như vậy là dựa trên quan điểm sai lầm về giá trị,Malthus đã đưa ra quan
niệm sai lầm về lợi nhuận,coi lợi nhuận"là khoản dôi ra ngoài chi phí về lao động
sống và lao động vật hoá".Với quan niệm này về lợi nhuận
vô hình chung,Malthus đã dẫn tới một cách giải thích sai lầm về nguồn gốc của lợi
nhuận,cho rằng không chỉ sức lao động của người công nhân mà cả các công cụ
lao động và đối tượng lao động cũng tham gia vào quá trình hình thành lợi nhuận.
Còn theo J.B.Say,người ủng hộ quan điểm giá trị ích lợi,thì cho rằng ích lợi của
vật quyết định giá trị của nó,ích lợi càng cao thì giá trị của vật càng lớn,coi ích lợi
là thước đo của giá trị.Dựa trên cơ sở thuyết giá trị ích lợi,Say đã đưa ra lý thuyết
về ba nhân tố sản xuất.Ông cho rằng có ba nhân tố tham gia vào quá trình sản xuất
là lao động,đất đai và tư bản,mỗi nhân tố có ích lợi riêng và tạo ra những phần giá
trị tương ứng.Do vậy,Say đã coi lợi nhuận như là phần giá trị của hàng hoá được
tạo ra do ích lợi của tư bản,có nghĩa là ,coi lợi nhuận như là hiệu suất đầu tư của tư
bản.Luận điểm này tất yếu dẫn tới việc cho rằng những máy móc tham gia vào quá
trình sản xuất cũng tham gia vào quá trình tạo ra giá trị chứ không phải chỉ riêng
lao động của công nhân mới tạo ra giá trị.Hơn nữa,Say còn cho rằng lợi nhuận là
tiền lương của nhà quản lý kinh doanh,là phần thưởng cho những nhà đầu tư dám
mạo hiểm.Ta có thể thấy rằng đó hoàn toàn là những quan điểm sai lầm.
4/Quan điểm về lợi nhuận của trường phái Cổ Điển Mới:
Xuất hiện trong giai đoạn bắt đầu sự chuyển đổi từ CNTB tự do cạnh tranh sang
CNTB độc quyền,đặc biệt là được hình thành sau khi CN Mác ra đời,trường phái
Cổ Điển Mới (CĐM) ra đời nhằm mục đích biện hộ cho CNTB trước những hiện
tượng kinh tế mới phát sinh như tình trạng độc quyền và những hậu quả về mặt xã
hội của nó vv...Ngoài ra nó còn có một nhiệm vụ khác là phê phán CN Mác,phủ
nhận những lý luận khoa học của Mác về bản chất bóc lột của giai cấp tư bản,sự
diệt vong tất yếu của CNTB và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vv...nhằm
bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản.Ủng hộ tư tưởng tự do cạnh tranh,áp dụng phép
phân tích vi mô nền kinh tế,kế thừa và tiếp tục phát triển lý thuyết giá trị tâm lý
chủ quan là các đặc điểm nổi bật của trường phái CĐM.Dựa trên các đặc điểm cơ
7
bản đó thì mỗi đại biểu của trường phái CĐM lại có những quan điểm khác nhau
về lợi nhuận.
Với J.B.Clark,ông đã phát triển lý thuyết 'ích lợi giới hạn' lên thành lý thuyết
'năng suất giới hạn' và từ đó đưa ra lý thuyết 'năng lực chịu trách nhiệm' của các
nhân tố sản xuất.Ông cho rằng thu nhập là năng lực chịu trách của các nhân tố sản
xuất,cụ thể là,tiền lương là năng lực chịu trách nhiệm của lao động,địa tô là năng
lực chịu trách nhiệm của đất đai còn lợi nhuận là năng lực chịu trách nhiệm của tư
bản.Nói như vậy có nghĩa là lợi nhuận,thực chất,được coi là tiền lương trả cho nhà
sản xuất-kinh doanh.Hoặc như Alfred Marshall thì lại coi lợi nhuận như là khoản
tiền thù lao thuần túy cho năng khiếu quản lý kinh doanh,sử dụng tư bản và năng
lực tổ chức hoạt động sản xuất.
Nhìn chung,các quan điểm về lợi nhuận của một số trường phái phi Mácxit kể
trên,mặc dù có một số trường phái có những quan điểm tiến bộ,đặc biệt là các
trường phái trước Mác, nhưng chúng vẫn chưa thể có được tính chính xác và khoa
học một cách trọn vẹn.Sở dĩ như vậy là vì các quan điểm này được xây dựng trên
cơ sở những luận điểm,hoặc là chưa đúng đắn,chính xác hoặc là sai lầm hoàn
toàn,về giá trị.Vì vậy mà ngay cả những nhà tư tưởng tiến bộ nhất của trường phái
TSCĐ cũng chưa thể xác định được đầy đủ và chính xác về nguồn gốc và bản chất
của lợi nhuận.Chỉ đến khi CN Mác xuất hiện,trên cơ sở kế thừa và phát triển tiếp
tục những quan điểm đúng đắn của các trường phái trước đó,mới có thể giải thích
một cách khoa học,chính xác và đầy đủ về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
II/Quan điểm về lợi nhuận trong học thuyết của Mác:
Như trên đã phân tích,chỉ đến khi CN Mác xuất hiện thì nguồn gốc và bản chất
của lợi nhuận mới được làm sáng tỏ thông qua các học thuyết kinh tế của CN
Mác.Dựa trên việc kế thừa những tư tưởng tiến bộ,khoa học của các trường phái lý
luận trước đó,Mác đã sáng tạo ra học thuyết của mình mà trong đó,nổi bật và có
vai trò như "một hòn đá tảng" trong toàn bộ học thuyết chính là những lý luận về
giá trị thặng dư(GTTD).Dựa cơ sở đó,Mác đã phân tích và làm sáng tỏ nguồn gốc
và bản chất của lợi nhuận cũng như đã giải thích được sự hình thành của tỷ suất lợi
nhuận bình quân và bản chất của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm
dần.Ngoài ra,Mác cũng đã thấy được và phân tích một cách khoa học sự phân chia
của lợi nhuận thành các hình thức khác nhau như lợi nhuận công
nghiệp(LNCN),lợi nhuận thương nghiệp(LNTN),lợi tức cho vay(LTCV),lợi nhuận
ngân hàng(LNNH),địa tô(ĐT) và cuối cùng là lợi nhuận độc quyền(LNĐQ).
Sau đây,chúng ta sẽ lần lượt xem xét các vấn đề trên trong học thuyết của Mác.
1/Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Để thấy được sự hình thành của lợi nhuận,trước tiên ta hãy xem xét về khái
niệm mà mác gọi là chi phí sản xuất(CPSX).
Như chúng ta đã biết,giá trị của hàng hoá được cấu thành nên từ chi phí cho lao
động trong quá khứ,chi phí cho lao động sống và phần giá trị mới được tạo ra
8
trong quá trình sản xuất.Tuy nhiên,đối với nhà tư bản thì họ không quan tâm tới sự
cấu thành của giá trị hàng hoá mà họ chỉ quan tâm tới việc phải bỏ ra bao nhiêu tư
bản và sẽ thu lại được cái gì.
Để tiến hành sản xuất ra một sản phẩm thì trên thực tế nhà tư bản sẽ phải ứng tư
bản ra để mua các tư liệu sản xuất(TLSX),được ký hiệu là (c), và để thuê lao
động,được ký hiệu là (v).Toàn bộ phần tư bản này được gọi là tư bản ứng
trước(TBƯT).Tuy nhiên,theo Mác thì không phải toàn bộ phần TBƯT này đều
được chuyển dịch hết vào giá trị của hàng hoá mà chỉ có một phần lượng tư bản
được dùng để ứng trước cho TLSX và toàn bộ lượng tư bản được dùng để ứng
trước cho lao động là cấu tạo trực tiếp nên giá trị của hàng hoá. Phần giá trị này
được Mác gọi là CPSX ,được ký hiệu là (k) và được biểu diễn dưới công thức:
k=c+v
Với sự hình thành khái niệm CPSX,nhà tư bản đã bước đầu che dấu được sự
hình thành của giá trị thặng dư(GTTD) và tạo điều kiện để hình thành nên khái
niệm lợi nhuận.Có thể thấy rõ được điều này qua việc nghiên cứu những phân tích
của Mác về công thức của C