Trong năm qua, tuy phải đương đầu với những khó khăn thách thức
nhưng đất nước ta đã giành được những thành tựu quan trọng và khá toàn
diện, giữ vững ổn định kinh tế chính trị -xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế
hàng đầu đều đạt và vượt kế hoạch, trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc
phòng đất nước được giữ vững. Tình hình hoạt động tiền tệ Ngân hàng có
nhiều biến chuyển tích cực mặc dù phải chịu tác động ảnh hưởng của nhiều
yếu tố bất lợi trong nước cũng như trên thế giới.
Cùng với xu thế này, trong những năm vừa qua , NHCT Đống Đa đã
được đánh giá là một trong những Ngân hàng đã có nhiều đóng góp trong sự
nghiệp đổi mới của ngành, cơ cấu tổ chức Ngân hàng được hoàn thiện hơn.
Là một Ngân hàng thương mại, NHCT Đống Đa thực hiện rất nhiều nghiệp
vụ, trong đó nghiệp vụ duy trì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu
là huy động vốn trung dài hạn để cho vay dự án đầu tư phát triển, nhận vốn
ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, kinh
doanh tiền tệ tín dụng. Bên cạnh những thành công đã đạt được trong hoạt
động cho vay tín dụng trung dài hạn các dự án đầu tư, Ngân hàng còn gặp
không ít khó khăn và nhiều rủi ro. Chính vì vậy, để đảm bảo hiệu quả và an
toàn cho vay đòi hỏi phải tích cực nâng cao chất lượng công tác thẩm định
trước cho vay, đặc biệt là cho vay dự án đầu tư. Hoạt động thẩm định dự án
đầu tư đang thực sự đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu đặt ra của NHCT
Đống Đa trong năm tới là tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng này.
Từ thực tế như vậy, với mong muốngóp phần nhỏ bé vào sự nghiệp
phát triển của Ngân hàng –nơi cá nhân thực tập, em lựa chọn đề tài :
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án
đầu tư tại chi nhánh NHCT Đống Đa” làm chuyên đề tốt nghiệp.
82 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2005 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại chi nhánh NHCT Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* * * * *
Luận văn
Những vấn đề lý luận cơ
bản về thẩm định dự án đầu
tư và một số giải pháp nâng
cao chất lượng công tác
thẩm định dự án đầu tư tại
chi nhánh NHCT Đống Đa
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
1
LỜI NÓI ĐẦU.
Trong năm qua, tuy phải đương đầu với những khó khăn thách thức
nhưng đất nước ta đã giành được những thành tựu quan trọng và khá toàn
diện, giữ vững ổn định kinh tế chính trị - xã hội. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế
hàng đầu đều đạt và vượt kế hoạch, trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc
phòng đất nước được giữ vững. Tình hình hoạt động tiền tệ Ngân hàng có
nhiều biến chuyển tích cực mặc dù phải chịu tác động ảnh hưởng của nhiều
yếu tố bất lợi trong nước cũng như trên thế giới.
Cùng với xu thế này, trong những năm vừa qua , NHCT Đống Đa đã
được đánh giá là một trong những Ngân hàng đã có nhiều đóng góp trong sự
nghiệp đổi mới của ngành, cơ cấu tổ chức Ngân hàng được hoàn thiện hơn.
Là một Ngân hàng thương mại, NHCT Đống Đa thực hiện rất nhiều nghiệp
vụ, trong đó nghiệp vụ duy trì sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu
là huy động vốn trung dài hạn để cho vay dự án đầu tư phát triển, nhận vốn
ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước, kinh
doanh tiền tệ tín dụng. Bên cạnh những thành công đã đạt được trong hoạt
động cho vay tín dụng trung dài hạn các dự án đầu tư, Ngân hàng còn gặp
không ít khó khăn và nhiều rủi ro. Chính vì vậy, để đảm bảo hiệu quả và an
toàn cho vay đòi hỏi phải tích cực nâng cao chất lượng công tác thẩm định
trước cho vay, đặc biệt là cho vay dự án đầu tư. Hoạt động thẩm định dự án
đầu tư đang thực sự đóng vai trò quan trọng. Mục tiêu đặt ra của NHCT
Đống Đa trong năm tới là tiếp tục mở rộng hình thức tín dụng này.
Từ thực tế như vậy, với mong muốn góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp
phát triển của Ngân hàng – nơi cá nhân thực tập, em lựa chọn đề tài :
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án
đầu tư tại chi nhánh NHCT Đống Đa” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
2
Chuyên đề gồm 3 chương cơ bản :
Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm định dự án đầu tư
Chương III : Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định
dự án đầu tư tại chi nhánh NHCT Đống Đa
Do hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm thực tế cũng như tài liệu sử
dụng nên nội dung chuyên đề khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong
nhận được ý kiến đóng góp bổ ích của các thầy cô giáo và các cán bộ Ngân
hàng để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
CHƯƠNG I:
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ.
1.1. Khái niệm về đầu tư và dự án đầu tư
1.1.1 . Đầu tư
a. Khái niệm đầu tư.
Hoạt động đầu tư (gọi tắt là đầu tư) là quá trình sử dụng các nguồn lực
tài chính, lao động , tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm
trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn, tái sản xuất mở rộng các cơ sở
vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ của ngành, cơ quan quản lý và xã hội nói riêng.Hoạt động đầu tư bao
gồm đầu tư trực tiếp và gián tiếp.
Hoạt động đầu tư gián tiếp là hoạt động bỏ vốn trong đó người đầu tư
không trực tiếp tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra.
Hoạt động đầu tư trực tiếp là hoạt động trong đó người bỏ vốn trực tiếp
tham gia điều hành quản trị vốn đầu tư đã bỏ ra. Nó chia ra thành 2 loại đầu
tư chuyển dịch và đầu tư phát triển. Trong đó:
- Nâng cấp các hoạt động đó vì mục tiêu phát triển thực chất. Nó tạo ra
của cải vật chất cho nền kinh tế quốc dân, tạo công ăn việc làm Đầu tư
chuyển dịch là hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư bỏ tiền để mua lại một số
lượng đủ lớn cổ phiếu của một doanh nghiệp nhằm tham gia nắm quyền điều
hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó.
- Đầu tư phát triển là hoạt động bỏ vốn nhằm gia tăng giá trị tài sản, tạo ra
những năng lực sản xuất , phục vụ mới bao gồm: xây dựng các công trình mới,
các hoạt động dịch vụ mới, cải tạo mở rộng cải thiện đời sống người lao động.
Có thể nói đầu tư phát triển đó là một quá trình có thời gian kéo dài
trong nhiều năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công
cuộc đầu tư khá lớn và vốn nằm đọng trong suốt quá trình thực hiện dự án
đầu tư(viết tắt là DAĐT). Các thành quả của loại đầu tư này cần được sử
dụng trong nhiều năm, đủ để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn
những nguồn lực đã bỏ ra. Chỉ có như vậy thì công cuộc đầu tư mới được coi
là có hiệu quả.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
4
b. Đặc trưng của đầu tư
Để làm rõ hơn nội dung của khái niệm hoạt động đầu tư, chúng ta đi sâu
phân tích các đặc trưng cơ bản của hoạt động này:
- Hoạt động đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên quyết định đầu tư thường
và trước hết là quyết định tài chính.
Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi. Dưới các hình thức khác
nhau nhưng vốn có thể xác định dưới hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết
định đầu tư thường được xem xét trên phương diện tài chính (khả năng sinh
lời, tổn phí, có khả năng thu hồi được hay không…). Trên thực tế, các quyết
định đầu tư cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách nhà nước, địa phương, cá
nhân và được xem xét từ các khía cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có khả
thi ở các phương diện khác (kinh tế – xã hội) nhưng không khả thi về
phương diện tài chính vì thế cũng không thể thực hiện được trên thực tế.
- Hoạt động đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài.
Khác với các hoạt động thương mại, các hoạt động chi tiêu tài chính
khác, đầu tư luôn là hoạt động có tính chất lâu dài. Do đó, mọi sự trù liệu
đều là dự tính và chịu một xác suất biến đổi nhất định do nhiều nhân tố biến
đổi tác động. Chính điều này là một trong những vấn đề then chốt phải tính
đến trong nội dung phân tích, đánh giá của quá trình thẩm định dự án.
- Hoạt động đầu tư là một trong những hoạt động luôn cần có sự cân
nhắc giữa lợi ích trước mắt và lợi ích trong tương lai.
Đầu tư về một phương diện nào đó là sự hy sinh lợi ích hiện tại để đánh
đổi lấy lợi ích trong tương lai. Vì vậy, luôn có sự so sánh cân nhắc giữa hai
loại lợi ích này và nhà đầu tư chỉ chấp nhận trong điều kiện lợi ích thu được
trong tương lai lớn hơn lợi ích hiện này họ phải hy sinh - đó là chi phí cơ hội
của nhà đầu tư.
- Hoạt động đầu tư chứa đựng nhiều rủi ro.
Các đặc trưng nói trên đã cho ta thấy đầu tư là một hoạt động chứa
đựng nhiều rủi ro do chịu xác suất nhất định của yếu tố kinh tế – chính trị –
xã hội – tài nguyên thiên nhiên…Bản chất của sự đánh đổi lợi ích và lại thực
hiện trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
5
thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Tuy
nhiên, nhận thức rõ điều này nên nhà đầu tư cũng có những cách thức, biện
pháp để ngăn ngừa hay hạn chế để khả năng rủi ro là ít nhất.
Những đặc trưng nói trên cũng đặt ra cho người phân tích, đánh giá dự
án chẳng những quan tâm về mặt nội dung xem xét mà còn tìm các phương
pháp, cách thức đo lường, đánh giá để có những kết luận giúp cho việc lựa
chọn và ra quyết định đầu tư một cách có căn cứ.
c. Vai trò của đầu tư.
Từ sau Đại hội Đảng lần VI, với chủ trương chuyển đổi cơ chế kinh tế
từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nền kinh tế Việt
Nam đã có những tiến bộ rõ rệt. Tỉ lệ tăng trưởng cao và tương đối ổn định,
tỉ lệ lạm phát dừng lại ở mức thấp, đặt biệt kim ngạch xuất khẩu ngày càng
tăng…cùng với sự chuyển mình của đất nước cũng như việc thực hiện đa
dạng, đa phương hoá các phương thức sản xuất kinh doanh đã làm cho chúng
ta hoà nhập hơn, thân thiện hơn với bạn bè quốc tế. Theo đó, tư duy về kinh
tế của mỗi người dân đều thay đổi. Chính vì vậy mà người ta đã biết đến đầu
tư như là một yếu tố quan trọng cần thiết. Hay nói khác đi, đầu tư cũng giống
như một chiếc chìa khoá để chiến thắng trong cạnh tranh sinh tồn.
Tăng trưởng và phát triển bền vững là phương hướng, mục tiêu phấn
đấu của mọi quốc gia. Để đạt được điều đó cần quan tâm giải quyết các nhân
tố ảnh hưởng đến sự tăng trưởng là nguồn nhân lực, tài nguyên, vốn và công
nghệ. Thông qua hoạt động đầu tư, các yếu tố đó sẽ được khai thác, huy
động và phát huy một cách tối đa để từ đó tạo cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn
lực mới cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Đối với nền kinh tế, đầu tư có tác động rất lớn đến tổng cung và tổng
cầu. Do đầu tư tác động không hoàn toàn phù hợp về mặt thời gian đối với
nhịp độ phát triển nên mỗi sự thay đổi tăng hoặc giảm của đầu tư đều cùng
lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền
kinh tế.
Với những nước có tỉ lệ đầu tư lớn thì tốc độ tăng trưởng cao. Ngược lại
khi tỉ lệ đầu tư càng thấp thì tốc độ tăng trưởng và mức độ tích luỹ càng thấp.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
6
Trong nền kinh tế quốc dân, để tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý thì vấn đề
đầu tiên có tính chất then chốt là phải thực hiện đầu tư và phân bổ vốn một
cách hợp lý. Có như vậy mới tạo ra được sự dịch chuyển về cơ cấu do mỗi
ngành, mỗi thành phần kinh tế đều có thế lực và tiềm năng riêng. Ngoài ra,
kinh nghiệm của các nơi trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể
phát triển nhanh là tăng cường đầu tư vào phát triển khu công nghiệp thương
mại du lịch và dịch vụ.
Đối với một doanh nghiệp thì đầu tư cũng đóng vai trò quyết định đến
sự tồn vong và phát triển. Trong nền kinh tế hiện nay, doanh nghiệp được coi
là các tế bào chủ yếu nhất cho sự phát triển chung. Để thành lập nên một
doanh nghiệp thì điều đầu tiên là phải có vốn đầu tư. Nó là một trong những
yếu tố thiết yếu để có thể tạo dựng nên nền móng cơ sở vật chất ban đầu cho
doanh nghiệp. Ngay cả sau khi doanh nghiệp đã được thành lập thì việc phát
triển hay lụi tàn đến mức nào đó cũng phụ thuộc rất nhiều vào việc đầu tư.
1.1.2. Dự án đầu tư.
a. Khái niệm dự án đầu tư (DAĐT)
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại thì “DAĐT là một tập
hợp các hoạt động đặc thù nhằm tạo nên một thực tế mới có phương pháp
trên cơ sở các nguồn lực nhất định”.
Ở Việt Nam, khái niệm DAĐT được trình bày trong nghị định 52/1999
NĐ-CP về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng cơ bản: “ DAĐT là tập hợp
các đề xuất có liên quan tới việc bỏ vốn để tạo vốn, mở rộng hoặc cải tạo
những cơ sở vật chất nhất định nhằm đạt được sự tăng trưởng về số lượng
hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong
khoảng thơì gian nhất định”.
Về mặt hình thức: DAĐT là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách
chi tiết có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt
được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong
tương lai.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
7
Về mặt nội dung: DAĐT là một tập hợp các hoạt động có liên quan
với nhau nhằm đạt được những mục đích đã đề ra thông qua nguồn lực
đã xác định như vấn đề thị trường, sản phẩm, công nghệ, kinh tế , tài
chính…
Vậy, DAĐT phải nhằm việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào để
thu được đầu ra phù hợp với những mục tiêu cụ thể. Đầu vào là lao động,
nguyên vật liệu, đất đai, tiền vốn… Đầu ra là các sản phẩm dịch vụ hoặc là
sự giảm bớt đầu vào. Sử dụng đầu vào được hiểu là sử dụng các giải pháp kỹ
thuật công nghệ, biện pháp tổ chức quản trị và các luật lệ…
Dù xem xét dưới bất kỳ góc độ nào thì DAĐT cũng gồm những thành
phần chính sau:
+ Các mục tiêu cần đạt được khi thực hiện dự án: Khi thực hiện dự án,
sẽ mang lại những lợi ích gì cho đất nước nói chung và cho chủ đầu tư nói
riêng.
+ Các kết quả: Đó là những kết quả có định lượng được tạo ra từ các
hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện các
mục tiêu của dự án.
+ Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện
trong dự án để tạo ra các kết quả nhất định, cùng với một lịch biểu và trách
nhiệm của các bộ phận sẽ được tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
+ Các nguồn lực: Hoạt động của dự án không thể thực hiện được nếu
thiếu các nguồn lực về vật chất, tài chính và con người. Giá trị hoặc chi phí
của các nguồn lực này chính là vốn đầu tư cho các dự án.
+ Thời gian: Độ dài thực hiện DAĐT cần được cố định.
DAĐT được xây dựng phát triển bởi một quá trình gồm nhiều giai
đoạn. Các giai đoạn này vừa có mối quan hệ gắn bó vừa độc lập tương đối
với nhau tạo thành chu trình của dự án. Chu trình của dự án được chia làm 3
giai đoạn: Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn
vận hành kết quả. Giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề quyết định sự thành
công hay thất bại ở giai đoạn sau, đặc biệt đối với giai đoạn vận hành kết quả
đầu tư.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
8
Đối với chủ đầu tư và nhà tài trợ, việc xem xét đánh giá các giai đoạn
của chu trình dự án là rất quan trọng. Nhưng đứng ở các góc độ khác nhau,
mỗi người có mối quan tâm và xem xét các giai đoạn và chu trình cũng khác
nhau. Chủ đầu tư phải nắm vững ba giai đoạn, thực hiện đúng trình tự. Đó là
điều kiện để đảm bảo đầu tư đúng cơ hội và có hiệu quả.
b. Vai trò của DAĐT.
Vai trò của DAĐT được thể hiện cụ thể ở những điểm chính sau:
- Đối với chủ đầu tư: dự án là căn cứ quan trọng để quyết định sự bỏ
vốn đầu tư. DAĐT được soạn thảo theo một quy trình chặt chẽ trên cơ sở
nghiên cứu đầy đủ về các mặt tài chính, thị trường, kỹ thuật, tổ chức quản lý.
Do đó, chủ đầu tư sẽ yên tâm hơn trong việc bỏ vốn ra để thực hiện dự án vì
có khả năng mang lại lợi nhuận và ít rủi ro. Mặt khác, vốn đầu tư của một dự
án thường rất lớn, chính vì vậy ngoài phần vốn tự có các nhà đầu tư còn cần
đến phần vốn vay ngân hàng. Dự án là một phương tiện rất quan trọng giúp
chủ đầu tư thuyết phục ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng xem xét tài trợ
cho vay vốn. DAĐT cũng là cơ sở để chủ đầu tư xây dựng kế hoạch đầu tư,
theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư. Quá trình này là
những kế hoạch mua sắm máy móc thiết bị, kế hoạch thi công, xây lắp, kế
hoạch sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, dự án còn là căn cứ để đánh giá và điều
chỉnh kịp thời những tồn đọng vướng mắc trong quá trình thực hiện đầu tư,
khai thác công trình.
- Đối với Nhà nước: DAĐT là cơ sở để cơ quan quản lý Nhà nước xem
xét, phê duyệt cấp vốn và cấp giấy phép đầu tư. Vốn ngân sách Nhà nước sử
dụng để đầu tư phát triển theo kế hoạch thông qua các dự án các công trình,
kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước,
cac DAĐT quan trọng của quốc gia trong từng thời kỳ. Dự án sẽ được phê
duyệt, cấp giấy phép đầu tư khi mục tiêu của dự án phù hợp với đường lối,
chính sách phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, khi hoạt động của dự án
không gây ảnh hưỏng đến môi trường và mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội.
Dự án được phê duyệt thì các bên liên q uan đến dự án phải tuân theo nội
dung, yêu cầu của dự án. Nếu nảy sinh mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên
liên quan thì dự án là một trong những cơ sở pháp lý để giải quyết.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
9
- Đối với nhà tài trợ: Khi tiếp nhận dự án xin tài trợ vốn của chủ đầu tư thì
họ sẽ xem xét các nội dung cụ thể của dự án đặc biệt về mặt kinh tế tài chính, để
đi đến quyết định có đầu tư hay không. Dự án chỉ được đầu tư vốn nếu có tính
khả thi theo quan điểm của nhà tài trợ. Ngược lại khi chấp nhận đầu tư thì dự án
là cơ sở để các tổ chức này lập kế hoạch cấp vốn hoặc cho vay theo mức độ hoàn
thành kế hoạch đầu tư đồng thời lập kế hoạch thu hồi vốn.
1.2. Thẩm định dự án đầu tư
1.2.1. Khái niệm thẩm định dự án đầu tư
Đối với mỗi DAĐT, từ khi lập xong đến khi thực hiện phải được thẩm
định qua nhiều cấp: Nhà nước, nhà đầu tư, nhà đồng tài trợ… Đứng dưới
mỗi giác độ, có những định nghĩa khác nhau về thẩm định. Nhưng hiểu một
cách chung nhất thì:
“Thẩm định DAĐT là việc tổ chức xem xét một cách khách quan và
toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận hành, khai
thác và tính sinh lợi của công cuộc đầu tư”
Cụ thể theo cách phân chia các giai đoạn của chu trình DAĐT, ta thấy ở
cuối Bước 1 có khâu “Thẩm định và ra quyết định đầu tư”. Đây là bước mà chủ
đầu tư phải trình hồ sơ nghiên cứu khả thi lên các cơ quan có thẩm quyền để
xem xét quyết định và cấp giấy phép đầu tư và cấp vốn cho hoạt động đầu tư.
Dưới góc độ là người cho vay vốn, các Ngân hàng thương mại (viết tắt
là NHTM) khi nhận được bản luận chứng kinh tế kỹ thuật sẽ tiến hành thẩm
định theo các chỉ tiêu và ra quyết định là có cho vay hay không cho vay. Sau
đó là đi đến “đàm phán và ký kết hợp đồng”. Như vậy có thể hiểu thẩm định
DAĐT trong Ngân hàng là thẩm định trước đầu tư hay thẩm định tín dụng.
Nó được đánh giá là công tác quan trọng nhất.
1.2.2. Ý nghĩa của công tác thẩm định DAĐT
+ Đối với nền kinh tế : Xét trên phương diện vĩ mô để đảm bảo được
tính thống nhất trong hoạt động đầu tư của toàn bộ nền kinh tế, tạo ra một tốc
độ tăng trưởng mạnh mẽ, đồng thời tránh được những thiệt hại và rủi ro
không đáng có thì cần phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong lĩnh
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
10
vực đầu tư cơ bản. Thẩm định DAĐT chính là một công cụ hay nói cách
khác đó là một phương thức hữu hiệu giúp nhà nước có thể thực hiện được
chức năng quản lý vĩ mô của mình. Công tác thẩm định sẽ được tiến hành
thông qua một số cơ quan chức năng thay mặt nhà nước để thực hiện quản lý
nhà nước trong lĩnh vực đầu tư như: Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ
Tài Chính, Bộ khoa học công nghệ và môi trường…cũng như các UBND
tỉnh, thành phố, các bộ quản lý ngành khác. Qua việc phân tích DAĐT một
cách hết sức toàn diện, khoa học và sâu sắc, các cơ quan chức năng này sẽ có
được những kết luận chính xác và rất cần thiết để tham mưu cho nhà nước
trong việc hoạch định chủ trương đầu tư, định hướng đầu tư và ra quyết định
đầu tư đối với dự án. Trong thực tế, để tạo điều kiện cho các cơ quan thẩm
định dự án, các DAĐT được chia ra làm một số loại cụ thể. Trên cơ sở phân
loại này, các sự phân cấp trách nhiệm trong khâu thẩm định và xét duyệt.
Các DAĐT phải đảm bảo tính chính xác và được nhanh chóng phê duyệt.
Hiện nay, các công tác quản lý đầu tư trên lãnh thổ Việt nam được thực hiện
theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, ban hành và kèm theo Nghị định số
52/1999/NĐ - CP ban hành 08/07/1999 của Thủ tướng Chính phủ – Nghị
định số 12/2000/NĐ - CP ban hành 05/05/2000. Theo những Nghị định này,
các ngân hàng đã cụ thể hoá chức năng của mình nhằm nâng cao hiệu quả về
quản lý phân cấp đầu tư.
+ Đối với NHTM: Cũng như các doanh nghiệp khác, trong cơ chế thị
trường hoạt động của NHTM phải chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế
khách quan trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị
trường luôn dẫn đến kết quả một người thắng và nhiều kẻ thất bại và cạnh
tranh là một quá trình diễn ra liên tục. Các doanh nghiệp luôn phải cố gắng
để là người chiến thắng. NHTM trong nền kinh tế luôn phải đương đầu với
áp lực của cạnh tranh, khả năng xảy ra rủi ro. Rủi ro có thể xảy ra bất cứ loại
hình hoạt động này của ngân hàng như rủi ro tín dụng, thanh toán, chuyển
hoán vốn, lãi suất, hối đoái…Trong đó rủi ro về tín dụng, đặc biệt là tín dụng
trung và dài hạn là rủi ro mà hậu quả của nó có thể tác động nặng nề đến các
hoạt động kinh doanh khác thậm chí đe doạ sự tồn tại của ngân hàng.
Rủi ro trong hoạt động tín dụng của ngân hàng xảy ra khi xuất hiện các
biến cố làm cho bên đối tác (khách hàng) không thực hiện được nghĩa vụ trả
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp.
11
nợ của mình đối với ngân hàng vào thời điểm báo hạn. Các khoản nợ đến
hạn nhưng khách hàng không có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ thuộc về một
trong hai trường hợp: khách hàng sẽ trả nợ ngân hàng nhưng sau một thời
gian kể từ thời điểm báo hạn, như vậy ngân hàng sẽ gặp phải rủi ro đọng
vốn, hoặc khách hàng hoàn toàn không thể trả nợ cho ngân hàng được,
trường