ở Việt Nam những tư tưởng triết học Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan Phật
giáo, là một trong những nhân tố cấu thành nền văn hóa dân tộc cũng như nhân cách, đạo
đức của mỗi người dân. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan
trọng, có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã hội Việt Nam.
Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua những
bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra
trên đất nước ta, thì sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra khá rõ nét và có những biểu hiện mới.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, xu hướng biến đổi ảnh hưởng của nhân
sinh quan Phật giáo Việt Nam sẽ như thế nào? Cần đánh giá những biến đổi đó theo chiều
hướng tích cực hay tiêu cực? Những nhân tố nào cần phát huy trong điều kiện mới và
bằng cách nào để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam
là vấn đề đang đặt ra và cần làm sáng tỏ.
84 trang |
Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 3141 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những
ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo
trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
ở Việt Nam những tư tưởng triết học Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan Phật
giáo, là một trong những nhân tố cấu thành nền văn hóa dân tộc cũng như nhân cách, đạo
đức của mỗi người dân. Từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo luôn tỏ rõ vai trò quan
trọng, có ảnh hưởng sâu rộng và toàn diện trong đời sống xã hội Việt Nam.
Những ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo luôn biến đổi trải qua những
bước thăng trầm trong lịch sử. Đặc biệt, từ khi công cuộc đổi mới chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra
trên đất nước ta, thì sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống
tinh thần của con người Việt Nam càng diễn ra khá rõ nét và có những biểu hiện mới.
Trong thời kỳ đổi mới đất nước hiện nay, xu hướng biến đổi ảnh hưởng của nhân
sinh quan Phật giáo Việt Nam sẽ như thế nào? Cần đánh giá những biến đổi đó theo chiều
hướng tích cực hay tiêu cực? Những nhân tố nào cần phát huy trong điều kiện mới và
bằng cách nào để có thể phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng
tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam
là vấn đề đang đặt ra và cần làm sáng tỏ.
2. Tình hình nghiên liên quan đến cứu đề tài
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống tinh thần của con người
Việt Nam là đề tài rộng lớn. Đã có nhiều công trình nghiên cứu và đạt được những kết
quả đáng trân trọng. Có thể kể ra một số công trình sau đây:
Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam của Viện Triết học, Hà Nội,
1986; Lịch sử Phật giáo Việt Nam của PGS Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Viện Triết học,
Hà Nội, 1991; Lịch sử tư tưởng Việt Nam, tập I của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb
Khoa học xã hội, 1993 ; Thiền học Trần Thái Tông của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Văn
hóa Thông tin, 1996; Tôn giáo tín ngưỡng hiện nay, mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
thiết, Trung tâm Thông tin tư liệu - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Văn
hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị
Bảy, Nxb Văn hóa thông tin 1997; ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với
con người Việt Nam hiện nay của Nguyễn Tài Thư (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
nội 1997; Tư tưởng triết của học Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung,
Nxb Chính trị quốc gia, 1998; ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống
văn hóa tinh thần ở Việt Nam của Lê Hữu Tuấn, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998; Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1999 ; Phật Giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng
Duy, Nxb Hà Nội, 1999; Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I của Nguyễn
Hùng Hậu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002 v.v...
Có thể nhận xét một cách khái quát, những công trình nghiên cứu trên đều thống
nhất ở một số điểm: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội Việt Nam,
đặc biệt là đời sống tinh thần. Những triết lý đầy tính nhân sinh của Phật giáo kết hợp với
văn hóa truyền thống đã tạo nên sự phong phú của đời sống tinh thần của con người Việt
Nam. Những công trình nghiên cứu nói trên, trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và
khía cạnh khác nhau, đã thể hiện tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối
với đời sống xã hội Việt Nam. Do đó, việc đánh giá những ảnh hưởng tích cực, tiêu cực
của Phật giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo, trên cơ sở đó đưa ra những giải
pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng triết học này trong đời sống xã hội Việt Nam lâu nay, là việc làm hết sức có ý
nghĩa. Tuy nhiên, việc làm sáng tỏ sự biến đổi ảnh hưởng của Phật giáo nói chung và
nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam
dưới tác động mạnh mẽ của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay thì hãy còn chưa
nhiều. Vì vậy, luận văn có nhiệm vụ là: trên cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả nghiên
cứu của những công trình đi trước để khảo sát đánh giá sự biến đổi của ảnh hưởng nhân
sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
a) Mục đích
Luận văn làm rõ sự biến đổi ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay. Nêu ra một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá
trình đổi mới ở nước ta hiện nay.
b) Nhiệm vụ
Một là, khái quát nội dung nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đối với
đời sống tinh thần truyền thống của con người Việt Nam.
Hai là, tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, bao gồm: Phân tích những nhân tố tác động đến sự
biến đổi đó; nêu lên một số xu hướng biến đổi của nhân sinh quan Phật giáo.
Ba là, đề ra một số phương hướng, giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng
- ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của người dân Việt
Nam
b) Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật
giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về tôn giáo nói chung và Phật giáo
nói riêng.
b) Cơ sở thực tiễn
Sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở
Việt Nam hiện nay.
c) Phương pháp nghiên cứu
Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp phân tích và tổng hợp; sự thống nhất
giữa lôgíc và lịch sử; điều tra phỏng vấn và kết hợp các phương pháp khái quát hóa, trừu
tượng hóa v.v...
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan
sinh Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
- Luận văn bước đầu nêu lên một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng
tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi
mới.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
tôn giáo ở các trường Đại học, Cao đẳng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1
nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó
đến đời sống tinh thần người Việt Nam
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học Phật giáo
Ph.Ăngghen đã nói: "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào
trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày
của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những
lực lượng siêu trần thế" [17, tr. 73].
Điều đó có nghĩa là, tôn giáo do con người sáng tạo ra, tôn giáo không sáng tạo ra
con người song lại có ảnh hưởng lớn tới đời sống của con người trên nhiều lĩnh vực khác
nhau.
Phật giáo - một trong mười tôn giáo lớn trên thế giới - ra đời đã hơn 2500 năm
nay, đã được truyền bá và ảnh hưởng tới nhiều nước trên thế giới như: Xrilanca, Xiry, Ai
Cập, Mianma, Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc và một phần Anh, Đức, Pháp … và
nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới. Trong quá trình du nhập trải qua các
thời kỳ lịch sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia mà
đã biến đổi ít nhiều. Sự ảnh hưởng của phật giáo đến ngoại bang diễn ra rất sớm và rất
nhanh chóng. Ngày nay trên phạm vi quốc tế, Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong
đời sống tinh thần của con người, trong đó có Việt Nam.
Người sáng lập ra Phật giáo là Hoàng tử Tất Đạt Đa - con vua Tịnh Phạn. Ông
sinh năm 563 mất năm 483 trước công nguyên ở ấn Độ. Sau khi tu hành đắc đạo có danh
hiệu Thích Ca Mâu Ni. Tương truyền, Hoàng tử Tất Đạt Đa từ khi mới sinh ra đã được
vua cha hết đỗi chiều chuộng, "nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa". Hoàng tử, vốn
là con độc nhất, được sống trong nhung lụa, được chăm sóc, giáo dục rất đầy đủ, toàn
diện. Chẳng bao lâu Hoàng tử đã trở thành người văn võ song toàn. Hoàng tử được vua
cha cưới vợ năm 17 tuổi, về sau có một người con trai tên là La Hầu La. Vua không
muốn cho Hoàng tử phải chứng kiến quy luật của cuộc sống là sinh - lão - bệnh - tử. Mặc
dù vậy, sau những lần dạo chơi ở cổng thành Hoàng tử đã chứng kiến nỗi khổ của con
người về sinh - lão - bệnh - tử; thấy được cuộc sống cơ cực của người dân trong xã hội ấn
Độ cổ đại lúc bấy giờ, vốn có sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã. Hoàng tử lại là người có
tấm lòng từ bi, bác ái vô hạn, sống gần gũi với con người, đầy tình người và trí tuệ.
Cái tâm đức Phật thật là từ bi
Còn trong Thái tử thời kỳ
Xem người cày ruộng mới đi ra ngoài
Thấy cò cứ mổ sâu hoài
Động lòng thương xót mọi loài chúng sinh.
(Từ bi)
Chứng kiến đời sống khổ cực và sự bất lực của con người trong xã hội đương
thời, đã khiến Hoàng tử Tất Đạt Đa có ý định từ bỏ cuộc sống giàu sang để đi tìm đạo lý
cứu đời. Năm 29 tuổi, nhân lúc vua cha, vợ con đang ngủ say, Tất Đạt Đa rời bỏ Hoàng
cung ra đi trở thành người tu tập thiền định và bắt đầu cuộc sống khổ hạnh. Qua một thời
gian học đạo, Người nhận thấy, cuộc sống giàu sang về vật chất, thỏa mãn dục vọng và cả
cuộc sống tu hành khổ hạnh ép xác đều là con đường sai lầm. Người cho rằng, cuộc sống
dù giàu sang đến đâu cũng chỉ là tầm thường, còn cuộc đời tu hành khổ hạnh thì tăm tối,
mà chỉ có con đường trung đạo mới là con đường đúng đắn. Người nói: "Ta tu khổ hạnh
mà như thế này, mà không thấy rõ đạo thì cái tu của ta vẫn chưa phải. Ta nên theo con
đường giữa, cứ ăn uống như thường, không say mê việc đời nào vẫn không khắc khổ hại
thân rồi mới thành đạo được" [14, tr. 42].
Sau khi tự mình đào sâu suy nghĩ tìm con đường giác ngộ chân lý mới, Tất Đạt
Đa quyết định từ bỏ cuộc sống tu hành khổ hạnh để đi vào tư duy trí tuệ. Qua nhiều lần tu
tập, sau 49 ngày ngồi thiền định dưới gốc cây Bồ đề, với những suy tư sâu thẳm, Người
đã giác ngộ được chân lý. Tất Đạt Đa đã lý giải được nguồn gốc nỗi khổ của con người,
cũng như phương pháp giải thoát diệt khổ. Là một tôn giáo, Phật giáo ra đời nhằm xoa
dịu nỗi khổ của con người trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp khắc nghiệt của xã hội
ấn Độ cổ đại.
Sinh thời, Đức Phật không viết sách, mà chỉ thuyết giảng cho các học trò của
mình bằng lời nói. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, các đệ tử đã tập hợp, phát triển tư
tưởng của người để xây dựng một học thuyết tôn giáo hoàn chỉnh (kinh, luật và luận
tạng). Về sau Phật giáo chia thành Tiểu thừa và Đại thừa với nhiều tông phái khác nhau,
du nhập và phát triển ra nhiều nước trên thế giới. Dù đã trải qua lịch sử thăng trầm hơn
2500 năm, với nhiều cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau, nhưng Phật giáo, mà trước
hết là triết lý nhân sinh của nó giàu lòng vị tha, thương người, rất gần gũi với con người
và mang nặng tính nhân sinh hơn các tôn giáo khác.
Giáo lý Phật giáo bao gồm hệ thống quan niệm về nhận thức luận, thế giới quan
và nhân sinh quan có kết cấu chặt chẽ. Mỗi yếu tố chứa đựng những nội dung với chức
năng riêng là tiền đề và hệ quả của nhau. Nhân sinh quan Phật giáo được bắt nguồn từ thế
giới quan. Tuy nhiên, mục đích chủ yếu của Phật giáo là thoát khổ, là giải phóng con
người, mang giá trị nhân sinh sâu sắc. Thích Ca Mâu Ni đã nhìn thấy rõ sự đau khổ ở đời
sống con người mà sáng lập ra Phật giáo để giải thoát con người khỏi nỗi khổ đau.
Triết học phương Đông nghiêng về việc nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề chính
trị, xã hội, đạo đức, tôn giáo, đặc biệt là vấn đề con người hơn là việc tìm hiểu giới tự
nhiên. Triết học phương Đông nghiên cứu thế giới để làm sáng tỏ con người, vạch ra
nguyên tắc ứng xử, giải quyết các mối quan hệ giữa người với người, chú ý đến đời sống
tâm linh mà ít quan tâm đến mặt sinh vật của con người. Mục đích nhận thức thế giới của
triết học đều nhằm phục vụ cho đời sống của con người và xã hội. Còn triết học phương
Tây chú trọng nghiên cứu thế giới, tìm hiểu giới tự nhiên, xây dựng nên các học thuyết,
các phạm trù v.v... Cũng như nhiều trào lưu tư tưởng triết học phương Đông, Phật giáo đề
cao và nhấn mạnh vấn đề nhân sinh. Đây cũng là một trong những đặc điểm cơ bản khác
biệt của triết học phương Đông so với phương Tây. Điều này góp phần vào việc lý giải vì
sao mặt vũ trụ quan của thế giới quan của Phật giáo, nhất là Phật giáo nguyên thủy, hơi
mờ nhạt, trong khi nội dung nhân sinh quan lại khá rõ ràng và mang tính nổi trội. Mục
đích cuối cùng của Phật giáo là giải thoát con người khỏi nỗi khổ trần thế thông qua con
đường tu tập về mặt tâm linh. Do đó, Phật giáo hầu như không đề cập và không có chủ
trương giải quyết những vấn đề có tính chất siêu hình, như chính lời của Đức Phật thuyết
giảng:
Giống hệt như người bị thương vì một mũi tên thuốc độc, bạn bè thân
thích đưa một ông thầy giải phẫu nhưng anh ta nói: Ta sẽ không để cho rút
mũi tên này ra trước khi biết ai làm ta bị thương, hắn ở đẳng cấp nào, tên họ
hắn là gì, hắn ta to bé hay trung bình, hắn ta từ đâu tới. Ta sẽ không cho rút
mũi tên này trước khi biết nó là loại cung nào, dây cung và mũi tên được làm
bằng gì, đầu nhọn mũi tên được làm như thế nào? Con người này sẽ chết đi mà
không biết điều đó chúng là vô ích không dẫn ta đến giải thoát. Việc cấp bách
là cứu khổ giống như việc lấy mũi tên thuốc độc ra khỏi thân thể con người
[12, tr. 266].
Khi các đệ tử hỏi Đức Phật về vấn đề siêu hình trừu tượng như vũ trụ có vĩnh
hằng không? Nó vô hạn hay hữu hạn, linh hồn và thể xác là một hay khác nhau, Như Lai
sau khi chết có tồn tại hay không?... thì người im lặng vì mục đích chủ yếu là cứu khổ
cho con người.
Như vậy, qua việc nghiên cứu những nội dung trên cho thấy, đối tượng nghiên
cứu chủ yếu của Phật giáo là con người, là giá trị nhân sinh. Qua việc phải chứng kiến
nỗi khổ của con người ở đời sống trần thế mà Thích Ca Mâu Ni đã xây dựng học thuyết
mang đậm giá trị nhân sinh để giải thoát, cứu khổ cho con người khỏi khổ nạn. Trong xã
hội chiếm hữu nô lệ ở ấn Độ, với sự thống trị của tư tưởng duy tâm tôn giáo Bà la môn và
chế độ phân biệt đẳng cấp khắt khe, Phật giáo ra đời là tiếng nói trong làn sóng phủ nhận
uy thế của kinh Vêđa và đạo Bà la môn, tố cáo chế độ xã hội bất công, đòi tự do tư tưởng
và sự bình đẳng xã hội, xóa bỏ nỗi khổ trong đời sống của người dân ấn Độ. Đây là sự
thể hiện tinh thần phản kháng của quần chúng nhân dân đối với chế độ xã hội đương thời:
Đức Phật tuyên bố: Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, không có đẳng cấp
trong giọt nước mắt cùng mặn, con người sinh ra không phải đã mang sẵn trong bào thai
dây chuyền ở cổ hay dấu tin ca (dấu hiệu quý phái của dòng Bà la môn) trên trán. Qua đó
thể hiện mặt tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong lĩnh vực sinh hoạt xã hội.
Nguyện vọng cứu khổ của Đức Phật mang tính nhân văn sâu sắc, còn có cứu được khổ
hay không lại là chuyện khác. Do vậy, Phật giáo rất gần gũi với con người. ở Việt Nam,
từ thuở xa xưa, Phật chính là "Bụt". Bụt ở đây là cách dịch âm khác của "Buddha" có
nghĩa là Phật, là giác ngộ. Hình ảnh ông Bụt hiện lên trong nhiều câu chuyện cổ tích như
truyện Tấm Cám… luôn là người đem lại niềm vui, hạnh phúc cho những người tốt bụng
mà gặp điều không may, đồng thời Bụt cũng là người trừng phạt cái xấu, kẻ ác.
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo
Triết lý nhân sinh Phật giáo bắt nguồn từ thế giới quan, do thế giới quan Phật
giáo chi phối. Mặt khác, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân sinh quan Phật
giáo chịu sự qui định của tồn tại xã hội và tác động của các hình thái ý thức xã hội khác.
Điều này giải thích tại sao trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân sinh quan Phật giáo có
sự biến đổi, không còn giữ nguyên như ở Phật giáo nguyên thủy. Nghiên cứu chi tiết, cho
thấy các phái Phật giáo có những quan niệm khác nhau về nhân sinh. Phật giáo Tiểu thừa
coi trọng "xuất gia khổ hạnh", chủ trương "ngã không pháp hữu", đề cao sự giải thoát
chính mình với mục đích cuối cùng là chứng đắc La Hán. Tư tưởng chủ yếu của Phật giáo
Tiểu thừa là "tịnh độ" và "xuất thế gian", nhấn mạnh cuộc đời là bể khổ mà nguyên nhân là
do "Thập nhị nhân duyên". Mục đích thoát khổ là phải xuất thế gian, xa rời cuộc sống phàm
tục, diệt dục mới có thể rũ bỏ bụi trần để đạt tới cảnh giới Niết bàn. Còn Phật giáo Đại thừa
không quá đề cao xuất gia khổ hạnh, chủ trương"ngã pháp đều không", tự giác ngộ và giác
ngộ người khác, mục đích tu tập trở thành Phật. Giới luật của Đại thừa cũng có nhiều
biến đổi khác với giới luật của Tiểu thừa ở sự tôn nghiêm cũng như nội dung. Nếu giới
luật của Tiểu thừa tập trung vào việc đạt quả phúc cho mình, thì giới luật của Đại thừa lại
thường hướng đến lợi ích cho người khác... Phật giáo Đại thừa về sau phát triển và lại chia
thành nhiều bộ phái khác nhau, xuất phát từ ấn Độ và truyền bá ra các nước xung quanh,
triết lý Phật giáo nói chung và nhân sinh quan Phật giáo nói riêng đã biến đổi, phát triển
ngày càng đa dạng phong phú để thích nghi với truyền thống của mỗi quốc gia, dân tộc
trong những thời kỳ lịch sử nhất định.
Vì khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ là có hạn, nên tác giả luận văn chỉ nghiên
cứu ảnh hưởng nhân sinh quan phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt
Nam và sự biến đổi của nó trong quá trình đổi mới hiện nay trong thuyết tứ đế của Phật
giáo.
Nhân sinh quan Phật giáo là một hệ thống gồm các quan điểm về con người, đời
sống của con người.
Về con người
Phật giáo tập trung ở học thuyết cấu tạo con người, học thuyết về sự xuất hiện và
tái sinh.
Theo Phật con người được cấu tạo từ những yếu tố thể hiện trong thuyết Danh
sắc và thuyết Lục đại.
Thuyết Danh sắc: Con người được cấu tạo từ hai yếu tố vật chất và tinh thần.
Thuyết Lục đại: Con người được cấu tạo từ sáu yếu tố:
Địa : Nghĩa là đất, xương thịt.
Thủy : Nước, máu, chất lỏng.
Hỏa : Lửa, nhiệt khí.
Phong : Gió, hô hấp
Không : Các lỗ trống trong cơ thể
Thức : ý thức tinh thần.
Trong 6 yếu tố này thì 5 yếu tố đầu thuộc về vật chất, chỉ có yếu tố cuối cùng
thuộc về tinh thần. So với thuyết Danh sắc thì thuyết lục đại xét cấu tạo con người
nghiêng nặng về vật chất còn thuyết kia gần như có sự cân bằng, hài hòa về hai lĩnh vực
vật chất, tinh thần.
Thuyết Ngũ ẩn : Xem con người được cấu tạo từ năm yếu tố.
Sắc : Vật chất bao gồm địa, thủy, hỏa, phong.
Thụ : Tình cảm, cảm giác con người.
Tưởng : Tưởng tượng, tri giác, ký ức.
Hành : ý thức, những yếu tố khiến tâm hoạt động.
Thức : ý thức theo nghĩa rộng gồm cả thụ, tưởng, hành.
Trong các thuyết về cấu tạo con người của Phật giáo, thì thuyết Ngũ uẩn là phổ
biến hơn cả. Như vậy, Phật giáo cho rằng, con người không có thực thể là "không", gọi là
"nhân vô ngã" (nhân không). Con người được tạo thành từ Ngũ uẩn cho nên không có
chủ thể hằng thường tự tại. Con người là sản vật, tự nhiên không có hình thái cố định của
tính vật chất nhưng vì đã ăn vật chất trên thế giới nên dần hình thành khối vật chất thô
kệch có sự phân biệt tính cách, màu da. Có bốn loại thực:
Đoạn thực : Thức ăn là động, thực vật, thức ăn vật chất, là cơm ăn nước uống
hàng ngày.
Xúc thực : Thức ăn là những cảm xúc, cảm giác.
Tư thực : Thức ăn là sự suy tư, nghĩ ngợi.
Thức thực : Thức ăn là tinh thần, là thức ăn ở cõi vô sắc, sống bằng tinh