Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi
động quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều
lĩnh vực hoạt động kinh tế thuộc cơ chế mới, trong đó một lĩnh vực có vị
trí hết sức quan trọng đó là lĩnh vực tiền tệ-ngân hàng. Bởi vì tiền tệ-ngân
hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có vai trò rất to lớn trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Kinh nghiệm phát triển kinh tế
của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có
nguyênnhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ và hoạt động của ngân
hàng.
Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi vận hành kinh tế
đều được tiền tệ hoá. Do vậy, bất kỳ một quátrình sản xuất kinh doanh nào
dù ở bất kỳ cấp độ nào: gia đình, doanh nghiệp, quốc gia luôn cần một
lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ. Ngân hàng là một trong những tổ
chức cung cấp vốn quan trọng nhất cho phần lớn các hoạt động sản xuất
của nền kinh tế, ngân hàng thực hiện việc chu chuyển vốn từ nơi thừa đến
nơi thiếu. Sau khi xác định được vốn dự trữ bắt buộc theo định mức và vốn
tiền gửi có thể sử dụng để kinh doanh. Ngân hàng tìm những khách hàng
có tín nhiệm, có thể đầu tư vốn an toàn. thu hồi vốn đúng hạn, tăng được
tốc độ quay vòng vốn tín dụng, thu được nhiều lợi nhuận nhằm nâng cao
hiệu qủa sử dụng vốn. Nhưng để thực hiện việc cho vay này đúng theo
mong muốn thì đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý
- -3
tiền cho vay, phải am hiểu khách hàng thị trường và những chính sách, quy
đinh của nhà nước về tiền tệ và tín dụng. Là một nhà hoạt đọng trong lĩnh
vực ngân hàng trong tương lai để có kiến thức phục vụ cho việc kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng tốt hơn, đem lại lợi ích cho bản thâm
và xã hội em đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề quản lý tiền cho vay
của các ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay. Đây là một trong số
những lĩnh vực được các nhà ngân hàng quan tâm để tăng cường hoạt động
có lợi.
44 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 4087 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- - 1
Luận Văn
"Quản lý tiền cho vay của ngân hàng thương mại"
- - 2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi
động quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội
Chủ Nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều
lĩnh vực hoạt động kinh tế thuộc cơ chế mới, trong đó một lĩnh vực có vị
trí hết sức quan trọng đó là lĩnh vực tiền tệ-ngân hàng. Bởi vì tiền tệ-ngân
hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có vai trò rất to lớn trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Kinh nghiệm phát triển kinh tế
của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có
nguyên nhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ và hoạt động của ngân
hàng.
Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi vận hành kinh tế
đều được tiền tệ hoá. Do vậy, bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào
dù ở bất kỳ cấp độ nào: gia đình, doanh nghiệp, quốc gia luôn cần một
lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ. Ngân hàng là một trong những tổ
chức cung cấp vốn quan trọng nhất cho phần lớn các hoạt động sản xuất
của nền kinh tế, ngân hàng thực hiện việc chu chuyển vốn từ nơi thừa đến
nơi thiếu. Sau khi xác định được vốn dự trữ bắt buộc theo định mức và vốn
tiền gửi có thể sử dụng để kinh doanh. Ngân hàng tìm những khách hàng
có tín nhiệm, có thể đầu tư vốn an toàn. thu hồi vốn đúng hạn, tăng được
tốc độ quay vòng vốn tín dụng, thu được nhiều lợi nhuận nhằm nâng cao
hiệu qủa sử dụng vốn. Nhưng để thực hiện việc cho vay này đúng theo
mong muốn thì đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý
- - 3
tiền cho vay, phải am hiểu khách hàng thị trường và những chính sách, quy
đinh của nhà nước về tiền tệ và tín dụng. Là một nhà hoạt đọng trong lĩnh
vực ngân hàng trong tương lai để có kiến thức phục vụ cho việc kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng tốt hơn, đem lại lợi ích cho bản thâm
và xã hội em đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề quản lý tiền cho vay
của các ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay. Đây là một trong số
những lĩnh vực được các nhà ngân hàng quan tâm để tăng cường hoạt động
có lợi.
MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Nội dung. 2
Chương I. Cơ sở lý luận của việc quản lý tiền cho vay 4
I.1. Tín dụng là gì? 6
I.2. Bản chất của tín dụng 7
I.3. Chức năng của tín dụng 9
I.4. Vai trò của tín dụng 10
I.5. Tín dụng ngân hàng 11
I.6. Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng thương mại 17
Chương II. Những nguyên tắc quản lý tiền cho vay 22
II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay 24
II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay 25
II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả 27
Chương III. Thực trạng việc cho vay của các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam hiện nay
30
III.1. Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng 31
- - 4
III.2. Các loại cho vay ngắn hạn về vốn lưu động 32
III.3. Các loại cho vay trung hạn và dài hạn 35
III.4. Cho vay tiêu dùng 36
III.5. Thành tựu và hạn chế của việc cho vay của các ngân hàng
thương mại ở Việt Nam
36
Chương IV. Giải pháp cho vay an toàn và hiệu quả của các ngân
hàng thương mại
40
IV.1. Giải pháp về rủi ro cho vay 34
IV.2. Giải pháp về nguyên tắc cho vay 31
IV.3. Giải pháp về phương thức cho vay
IV.4. Giải pháp về tín dụng của ngân hàng thương mại
IV.5. Giải pháp cho vấn đề ứ đọng vốn hiện nay
IV.6. Giải pháp về nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng
Chương V. Phương hướng để nâng cao hiệu quả của việc quản lý
tiền cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam
V.1. Chiến lược sử dụng vốn gắn liền với chiến lược kinh tế - xã hội
V.2. Phân bổ thành phần vốn đầu tư trong từng dự án
V.3. Nhiệm vụ đặt ra đối với ngành ngân hàng
Kết luận
Tài liệu tham khảo
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ TIỀN CHO
VAY
- - 5
I.1. Tín dụng là gì ?
Theo các nhà kinh tế học người Pháp: tín dụng là sự trao đổi một tài
hoá hiện tại để lấy một tài hoá trong tương lai. Tín dụng là việc dịch
chuyển vốn tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu.
Theo Việt Nam: tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau giữa nguyên tắc
hoàn trả kèm theo lợi tức .
I.2. Bản chất của tín dụng
Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa. Cần xem xét nội
dung của phạm trù này để hiểu bản chất của nó. Tín dụng là mối quan hệ
kinh tế giữa các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu được bản chất của tín dụng,
phải xuất phát từ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi loại hình
doanh nghiệp khác nhau sẽ có quá trình luôn chuyển vốn khác nhau.Hơn
nữa ngay trong bản thân doanh nghiệp quả trình luôn chuyển các loại vốn
cũng khác nhau. Nên đối với một doanh nghiệp xẩy ra sự không trùng
khớp giữa nhu càu về vốn và vôn tự có,coi như tư có: hoặc là doanh nghiệp
đang tạm thời thiếu vốn hoặc là đang tự thừa vốn. Nếu doanh nghiệp đang
tạm thời thiếu vốn thì doanh nghiệp sẽ có nhu cầu huy động thêm vốn để
tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đang tạm thời
thừa vốn thì doanh nghiệp có nhu cầu cho vay lấy lãi. Mặc dù doanh
nghiệp luân tìm cách sử dụng tối đa vốn tự có và coi như tự có, song nếu
khả năng thu hồi vốn thấp,hoặc lãi cho vay thấp không bù đáp nổi rủi ro có
thể doanh nghiệp cũng không cho vay.Nếu chúng ta xem xét nhiều doanh
nghiệp trong cùng một thời gian sẽ thấy có doanh nghiệp đang tạm thời
thiếu vốn có nhu cầu đi vay và có doanh nghiệp đang tạm thời thừa vốn có
nhu cầu cho vay. Hiện tượng kinh tế trên làm nảy sinh một số mối quan hệ
kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển tạm thời từ nơi thừa
sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay. Từ nội dung của
- - 6
quan hệ tín dụng ta thấy, thực chất của tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ
sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp. Một nhu cầu vốn
thường xuyên lớn hơn vốn tự có và coi như tự có không thể được hình
thành thông qua quan hệ tín dụng. Mặt khác tín dụng là quan hệ kinh tế
nhằm giải quyết cả hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản
chất nó là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi, và mang tính thoả thuận
rất lớn.
I.3. Chức năng của tín dụng.
Huy động và phân phối vốn tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn
trả. Đây là chức nâng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất cuả tín dụng.
Chức năng này của tín dụng được thể hiện thông qua các nghiệp vụ cơ bản
sau: huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội, dân cư thông qua các hình thức góp vốn, huy động tiếp kiệm, phát
hành trái phiếu. Cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân nhằm phục vụ
sản xuất kinh doanh và tiêu dùng dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc
bằng hàng hoá.
Kiểm soát các hoạt động kinh tế: Tín dụng là quan hệ kinh tế được
hình thành trên cơ sở rất nhiều quan hệ kinh tế khác. Bản thân quan hệ tín
dụng cũng lại bao hàm nhiều mối quan hệ như: Quan hệ vay, quan hệ về
dư nợ. Do đó quan hệ tín dụng bao hàm cả khả năng kiểm soát các loại
hoạt đọng kinh tế của các doanh nghiệp. Để hình thành được quan hệ tín
dụng, người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như
tình vốn liếng mặt hàng sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ nói riêng và
tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác…Các trục trặc
trong quan hệ tín dụng như vay không trả được hoặc trả khong đúng hạn
phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh doanh như khâu tiêu
thụ hàng hoá, không có lãi, bị phá sản…
- - 7
I.4. Vai trò của tín dụng
Là một mối quan hệ kinh tế, tín dung có những tác động nhất định
đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ
yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý
kinh tế của con người. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung
vốn rất quan trọn. Thông qua tín dụng: Các doanh nghiệp nhận khối lượng
vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động,
đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tâp trung các khoản tín
dụng nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công
trình lớn, hiệu quả cao. Tóm lại, thông qua quá trính tích tụ và tập trung
vốn, tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau nữa tín dụng là
công cụ bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. Tín dụng giúp các nhà doanh
nghiệp đầu tư vào các ngành có tỉ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
chuyển hướng sản xuất kinh doanh.Tín dụng trở thành công cụ làm cho
kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động,mềm
dẻo, linh hoạt. Bên cạnh đó, tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và
tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông.
Chúng ta đã xem xét vai trò của tín dụng trên những phương diện
tích cực. Điều cần lưu ý là những vai trò trên sẽ còn tích cực, thậm sẽ là
tiêu cực dưới nhận thức và vận dụng sai lệch của con người.
I.5. Tín dụng ngân hàng.
Là một hình thức tín dụng quan trọng. Có thể nói mối quan hệ tín
dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp là quan hệ tín dụng chủ yếu,
cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp. Với công nghệ
- - 8
ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín
dụng chủ yếu không những ở trong nước mà còn trên trường quốc tế.
I.5.1.Bản chất của tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng.
Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định,
là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình
đẳng và cả hai bên cùng có lợi. Đặc biệt tín dụng ngân hàng là mối quan hệ
vay mượn giữa ngân hang và tất cã các doanh nghiệp, các cá nhân khác.
Mối quan hệ tín dụng này không phải là mối quan hệ dịch chuyển vốn trực
tiếp từ nơi thừa sang nơi thiếu mà thông qua cơ quan trung gian là các ngân
hàng.
I.5.2. Chức năng của tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng huy động và cho vay vốn
tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hàng , chức năng
này bao gồm hai nghiệp vụ được tách hẳn ra :Huy động vốn tạm thời nhàn
rỗi và cho vay đối với những nhu cầu đang thiếu tạm thời. Đó là điểm mà
nhiều loại hình tín dụng khác không có.
Kiểm soát các hoạt động kinh tế khả năng kiểm soát các hoạt động
kinh tế của tín dụng ngân hàng là rộng lớn hơn các hình thức tín dụng
khác. Bởi vì bên cạnh quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân,
ngan hàng còn có quan hệ tiền tệ, thanh toán…với họ. Các mối quan hệ
này bổ xung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các doanh
nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng so với các doanh nghiệp khác.
Chẳng hạn, trước khi cho một doanh nghiệp vay,ngân hàng có thể biết
tương đối chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp đó
- - 9
I.6.Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng Thương mại.
Đối với một ngân hàng sau khi huy động được nguồn vốn thì tiến
hành kinh doanh trên nguồn vốn đó. Ngân hàng Thương mại thực hiện
nhiệm vụ cho vay đối với nền kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn cho các thanhf
viên của nền kinh tế. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra
lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi các chi phí tiền
gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi
phí thuế và cả chi phí rủi ro đầu tư.
CHƯƠNG II: NHỮNG NGHUYÊN TẮC QUẢN LÝ TIỀN CHO
VAY.
II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay.
Trước khi quyết định làm bất cứ việc gì, phải nắm bắt đầy đủ những
thông tin chính xác có liên quan đến việc đó thì mới tránh được những thiệt
hại do sai lầm thiếu thông tin gây ra. Trong việc cho khách hàng vay vốn,
nếu ngân hàng không có đủ những thông tin cần thiết về người đi vay thì
rất dễ dàng bị thiệt hại do không đòi được nợ hoặc nợ quá hạn tăng lên.
Ngân hàng thương mại kinh doanh trên địa bàn nào trước hết đòi hỏi
phải am hiểu tường tận địa bàn đó như: tình hình kinh tế, xã hội, lịch sử,
đất đai, hạb tầng tầng cơ sở, tài nguyên, dân cư, vốn liếng, của cải, bất
động sản, tài sản lưu động, các quan hệ giao lưu kinh tế, tài chính đối với
cấp trên, với địa bàn khác… bằng các số liệu thống kê cụ thể, chính xác do
ngân hàng tự điều tra, sưu tầm có thể tin cậy được.
- - 10
Nền kinh tế thị trường vận động, biến đổi không ngừng nên hàng
ngày phải theo dõi kịp thời diễn biến của các thị trường hàng hoá, thị
trường tiền tệ, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, sản lượng các
sản phẩm chủ yếu của các nghành kinh tế, các chính sách kinh tế tài chính,
đầu tư, xuất nhập khẩu, tỉ giả hối đoái, lãi suất, thuế, các đạo luật mới ban
hành, những bíên động về giá hàng xuất nhập khẩu, giá vàng, giá ngoại tệ
mạnh, giá nội tệ, những biến động về đầu tư trong nước, từ nước ngoài
vào, thu chi ngân sách, những biến động có liên quan trực tiếp đến những
người gửi tiền và vay tiền ngân hàn… để dự kiến các giải pháp đối phó hay
chuẩn đối phó trong thời gian tới.
Có những thông tin kinh tế chung là điều cần thiết không thể thiếu
được, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, còn phải có thông tin nhiều mặt về đối
tượng đến vay vốn. Phải tiếp cận đến nơi đến chốn quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp, phải đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh
của chủ doanh nghiệp, vì trình độ kinh doanh nghiệp càng kém thì khả
năng rủi ro mất vốn của ngân hàng khi cho vay càng lớn.
II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay.
Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi đã có đủ cơ sở để tin
tưởng khách hàng sẽ trả nợ đúng hạn đủ vốn và lãi. Chỉ khi nào khách hàng
có đủ điều kiện để ngân hàng tin tưởng, thì lúc ấy mới có quan hệ tín dụng.
Luật ngân hàng qui định: Các doanh nghiệp,tổ chức,cá nhân muốn vay tiền
ngân hàng phải có đủ các điều kiện sau:phải có đơn xin vay, được ngân
hàng kiểm tra khả năng vay nơ và khả năng trả nợ, người đi vay kí hợp
đồng tin dụng với ngân hàng, người đi vay kí hơp đồng đảm bảo tín đụng
với ngân hàng. Để đảm bảo trong hoạt động vay vốn của ngân hàng nhà
nước ta có những quy định chặt chẽ việc cho vay phải có:
- - 11
Bảo lãnh : bảo lãnh là hành động cam kết trả nợ ngân hàng bằng giấy
tờ hợp pháp của người nhận bảo lãnh cho người đi vay khi khoản nợ đã
đến hạn mà người đi vay không có khả năng trả nợ. Trong giấy bảo lãnh
phải ghi rõ tên người mắc nợ và số tền nhận bảo lãnh , như vậy có nghĩa là
người bảo lãnh chỉ hạn chế việc bảo lãnh của mình trong phạm vi số tiền
nợ mà người đi vay đã thừa nhận .
Cầm cố giấy tờ có giá, hàng hoá và tài sản khác:để được vay vốn,
người đi vay phải cầm cố cho ngân hàng tài sản của mình như giấy tờ có
giá, hàng hoá, vàng, đá quý… Nhà nước ta quy định giá trị khoản vay
không được vượt quá 70% giá trị tài sản cầm cố hoặc thế chấp, ngân hàng
Nhà Nước ban hành quyết định 217 về “giao tài sản” là việc bên cầm cố
phải đưa tài sản cho ngân hàng, hoặc bên thứ 3 nắm giữ trong suốt thời
gian hợp đồng. Và quy định bên bảo lãnh phải lập một danh mục tài sản
dùng vào việc bảo lãnh và số tiền cho vay tối đa không vượt quá 70% giá
trị tài sản dùng vào việc bảo lãnh.
Cầm cố bất động sản : bất động được cầm cố như nhà ở, đất đai,
ruộng rẫy, sau khi làm thủ tục càm cố người đi vay mới nhận được tiền
vay. Người đi vay phải trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng, không
được đem bất động sản đã cầm cố cho ngân hàng này tiếp tục cầm cố cho
ngân hàng khác để đượcvay thêm tiền ở ngân hàng khác.
Cần chú ý thường xuyên đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng,
nếu khả năng này không có thì có nghĩa là người vay đã mất khả năng
thanh toán hoặc đã vỡ nợ. Cho nên, sau khi đã bỏ vốn ra cho các công ty
vay, việc kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra khả năng toán, trả nợ đối với
ngân hàng không lúc nào được lơ là, mà phải tiến hành thường xuyên, liên
tục.
- - 12
II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả
Sự lựa chọn đối nghịch trong thị trường cho vay nảy sinh bởi vì
những người rất kém tín nhiệm lại là những người thường xếp hàng để vay
tiền, những người vay tiền với những dự án đầu tư rất rủi ro có nhiều cái để
được lợi nếu các dự án của họ được thành công và như vậy họ là nhữnh
người khao khát nhận món vay nhất. Mặt khác, rủi ro đạo đức nảy sinh
trong các thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực
hiện những hoạt động không đáng mong muốn theo quan điểm của người
cho vay, khi những người vay đã có món tiền vay, họ dễ có thể đàu tư vào
những dự án có rủi ro cao. Để có lợi nhuận, các ngân hàng phải vượt qua
những vấn
đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức này, những vấn đề khiến cho sự
vỡ nợ có thể xảy ra. Sự cố gắng của các ngân hàng để giải quyết các vấn đề
này giúp ta giải thích những nguyên tắc quản lý các món tiền cho vay sau
đây.
II.3.1. Sàng lọc và giám sát.
Lựa chọn đối nghịch trong các thị trường cho vay đòi hỏi rằng các
ngân hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có tiển vọng tốt ra
khỏi những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu, nhờ vậy các
món tiền cho vay sẽ có lợi cho ngân hàng đó. Nhằm thực hiện việc sàng
lọc một cách có hiệu quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin tin cậy về
những người vay tiền có triển vọng. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập
hợp thông tin, tạo ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý món tiền
cho vay. Khi một người đến vay ngân hàng, ngân hàng nắm bắt thông tin
về người này và tiến hành phân tích xem người này có phải là người mạo
- - 13
hiểm và tín dụng có triển vọng tốt đến mức nào, nó dự báo liêuj người đó
có khó khăn khi tanh toán món tiền vay hay không.
Việc giám sát va cưỡng chế thi hành những qui định hạn chế. Một
khi một món tiền cho vay được thực hiện, người vay có ý muốn tiến hành
những hoạt động rủi ro để món vay này có thể ít có khả năng thanh toán.
Để giảm bớt tính chất có thể như vậy của rủi ro đạo đức, các ngân hàng
phải theo nguyên tắc quản lý tiền vay bằng cách giám sát những hoạt động
của người vay để xem liệu họ có tuân theo những quy định hay không và
cưỡng chế thi hành những quy định nếu họ không tuân theo.
II.3.2. Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng
Một cách nữa để các ngân hàng thu được thông tin về những người
vay tiền của họ là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài-một nguyên lý quan
trọng khác của việc quản lý ngân hàng. Quan hệ khách hàng lâu dài giúp
cho các ngân hàng có thể đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà
ngay cả ngân hàng cũng không lườn trước được ở lúc ban đầu. Mối quan
hệ khách hàng lâu dài dễ dàng cho việc tập hợp thông tin. Ngoài ra, các
điều khoản trong thoả ước về mức tín dụng này đòi hỏi hãng đó cung cấp
thường xuyên cho ngân hàng này những thông tin về tình hình thu nhập, tài
sản có và tài sản nợ, về các hoạt động kinh doanh…một thoả ước về mức
tín dụng là một phương pháp rất hữu hiệu để giảm chi phí cho việc sàng
lọc và tạp hợp thông tin của ngân hàng .
II.3.3.Vật thế chấp và số dư bù.
Những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền cho vay là những công
cụ quan trọng để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa
cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ. Một dạng riêng của vật thế chấp
- - 14
bắt buộc khi ngân hàng cho vay thương mại gọi là số dư bù. Một hãng khi
nhận đựơc tiền vay phải giữ một số vốn tối thiểu bắt buộc trong một tài
khoản séc ở ngân hàng cho nó vay. Ngoài việc có tác dụng như vật thế
chấp, các số dư bù giúp tăng được khả năng món tiền cho vay sẽ được
hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò này giúp ngân hàng giám sát người vay đó
và ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong các thủ
tục thanh toán của người vay đều là một tín hiệu báo cho ngân hàng rằng
phải tiến hành điều tra. Những số dư