Cơ chế kinh tế thị trường xuất hiện cùng với công cuộc cải cách kinh tế
ở Việt Nam đã được trên 15 năm. Nhờ đó nền kinh tế đã thu được những
thành tựu quan trọng bước đầu, tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức độ
tương đối cao trong một thời gian dài. Cùng với sự phát triển của đất nước,
hoạt động xây dựng trong những năm gần đây đã có sự chuyển mình và đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Ngành xây dựng nước ta đã có những bước phát
triển không ngừng về mọi mặt, trưởng thành nhanh chóng trong mọi lĩnh vực
của hoạt động xây dựng, có thể thiết kế, thi công hoàn thiện nhiều công trình
có quy mô lớn, hiện đại và ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng các
công trình công nghiệp, công trình dân dụng và hạ tầng kỹ thuật. Đóng góp
một phần không nhỏ vào thành tích này, ta phải kể đến hoạt động đấu thầu.
Đấu thầu xây dựng là công việc tuy mới được áp dụng ở nước ta từ
năm 1994 nhưng đến nay, qua nhiều bước hoàn thiện đã chứng tỏ phù hợp với
nền kinh tế thị trường, thực sự mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, tiết kiệm chi
phí đầu tư xây dựng, thúc đẩy sự hoàn thiện của bản thân Nhà thầu về năng
lực và tổ chức để đảm bảo các yêu cầu về tiến độ thi công và chất lượng các
công trình. Tuy nhiên, công tác đấu thầu là lĩnh vực tương đối mới nên trong
quá trình thực hiện không tránh khỏi những lúng túng, bất cập thậm chí có
những sai lầm gây thất thoát tài lực của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải tập
trung sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới phương thức phù hợp trong quản lý và
điều hành công tác đấu thầu nói chung.
Khi đất nước bước sang thiên niên kỷ mới, Đại hội Đảng IX đã thông
qua một số văn kiện quan trọng đề ra mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong
những năm tới, thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên, trong
thời gian qua, Nhà nước đã xây dựng và ban hành các biện pháp, cơ chế,
chính sách nhằm phát huy nội lực đất nước, phù hợp với các cam kết quốc tế.
3
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng đặc biệt là
hoạt động đấu thầu ngày càng được bổ sung, hoàn thiện phục vụ đắc lực cho
công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này, tạo ra một thị trường xây dựng
trong sạch, mang tính cạnh tranh cao.
Qua thời gian thực tập tại phòng Kinh tế Tổng công ty Sông Đà, em đã
nhận thức được tầm quan trọng của phương thức đấu thầu đối với nền kinh tế
nói chung và đối với Tổng công ty Sông Đà nói riêng. Hơn nữa, để hiểu sâu
hơn các quy định của pháp luật về phương thức đấu thầu từ đó thấy được
những ưu điểm, tồn tại cùng các giải pháp để phương thức đấu thầu ngày càng
hoàn thiện nên em chọn đề tài: “Quy chế đấu thầu cơ sở pháp lý và thực tiễn
áp dụng tại Tổng công ty Sông Đà” . Ngoài phần mở đầu và phần kết luận,
luận văn gồm các phần:
Chương I: Những vấn đề pháp lý chung về đấu thầu, đấu thầu xây lắp
Chương II: Vấn đề áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng
công ty Sông Đà
Chương III: Kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về đấu thầu xây
lắp tại Tổng công ty Sông Đà
89 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quy chế đấu thầu cơ sở pháp lý và thực tiễn áp dụng tại tổng công ty Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Quy chế đấu thầu cơ sở
pháp lý và thực tiễn áp
dụng tại Tổng công ty
Sông Đà
2
LỜI MỞ ĐẦU
Cơ chế kinh tế thị trường xuất hiện cùng với công cuộc cải cách kinh tế
ở Việt Nam đã được trên 15 năm. Nhờ đó nền kinh tế đã thu được những
thành tựu quan trọng bước đầu, tốc độ tăng trưởng được duy trì ở mức độ
tương đối cao trong một thời gian dài. Cùng với sự phát triển của đất nước,
hoạt động xây dựng trong những năm gần đây đã có sự chuyển mình và đang
diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Ngành xây dựng nước ta đã có những bước phát
triển không ngừng về mọi mặt, trưởng thành nhanh chóng trong mọi lĩnh vực
của hoạt động xây dựng, có thể thiết kế, thi công hoàn thiện nhiều công trình
có quy mô lớn, hiện đại và ngày càng đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ xây dựng các
công trình công nghiệp, công trình dân dụng và hạ tầng kỹ thuật. Đóng góp
một phần không nhỏ vào thành tích này, ta phải kể đến hoạt động đấu thầu.
Đấu thầu xây dựng là công việc tuy mới được áp dụng ở nước ta từ
năm 1994 nhưng đến nay, qua nhiều bước hoàn thiện đã chứng tỏ phù hợp với
nền kinh tế thị trường, thực sự mang lại hiệu quả kinh tế to lớn, tiết kiệm chi
phí đầu tư xây dựng, thúc đẩy sự hoàn thiện của bản thân Nhà thầu về năng
lực và tổ chức để đảm bảo các yêu cầu về tiến độ thi công và chất lượng các
công trình. Tuy nhiên, công tác đấu thầu là lĩnh vực tương đối mới nên trong
quá trình thực hiện không tránh khỏi những lúng túng, bất cập thậm chí có
những sai lầm gây thất thoát tài lực của đất nước, đòi hỏi Nhà nước phải tập
trung sự nghiên cứu, cập nhật, đổi mới phương thức phù hợp trong quản lý và
điều hành công tác đấu thầu nói chung.
Khi đất nước bước sang thiên niên kỷ mới, Đại hội Đảng IX đã thông
qua một số văn kiện quan trọng đề ra mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội trong
những năm tới, thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên, trong
thời gian qua, Nhà nước đã xây dựng và ban hành các biện pháp, cơ chế,
chính sách nhằm phát huy nội lực đất nước, phù hợp với các cam kết quốc tế.
3
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư xây dựng đặc biệt là
hoạt động đấu thầu ngày càng được bổ sung, hoàn thiện phục vụ đắc lực cho
công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này, tạo ra một thị trường xây dựng
trong sạch, mang tính cạnh tranh cao.
Qua thời gian thực tập tại phòng Kinh tế Tổng công ty Sông Đà, em đã
nhận thức được tầm quan trọng của phương thức đấu thầu đối với nền kinh tế
nói chung và đối với Tổng công ty Sông Đà nói riêng. Hơn nữa, để hiểu sâu
hơn các quy định của pháp luật về phương thức đấu thầu từ đó thấy được
những ưu điểm, tồn tại cùng các giải pháp để phương thức đấu thầu ngày càng
hoàn thiện nên em chọn đề tài: “Quy chế đấu thầu cơ sở pháp lý và thực tiễn
áp dụng tại Tổng công ty Sông Đà” . Ngoài phần mở đầu và phần kết luận,
luận văn gồm các phần:
Chương I: Những vấn đề pháp lý chung về đấu thầu, đấu thầu xây lắp
Chương II: Vấn đề áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng
công ty Sông Đà
Chương III: Kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý về đấu thầu xây
lắp tại Tổng công ty Sông Đà
CHƯƠNG I- NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CHUNG VỀ
ĐẤU THẦU, ĐẤU THẦU XÂY LẮP
I - KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẤU THẦU
1- Sự cần thiết phải tiến hành đấu thầu trong hoạt động xây dựng
Khi một dự án đã được phê duyệt, công việc tiếp theo là triển khai thực
hiện dự án. Để triển khai thực hiện dự án có rất nhiều việc phải làm như: tư
4
vấn, thiết kế kỹ thuật, thi công, mua sắm thiết bị, xây lắp... Có hai cách để
thực hiện các công việc này:
- Chủ dự án tự mình làm tất cả các công việc của dự án
- Thuê các đối tác bên ngoài
Đối với cách thứ nhất, chủ dự án sẽ tự mình thực hiện toàn bộ dự án
bằng các nguồn lực sẵn có, phát triển những công nghệ sẵn có của mình. Nếu
theo cách thứ hai, chủ đầu tư sẽ phải tìm kiếm các đối tác cho các công việc
cụ thể, chi tiết của dự án từ một công ty khác bằng cách sử dụng hình thức
đấu thầu( khi đó chủ dự án sẽ là chủ đầu tư và các đối tác tham gia là các Nhà
thầu) để lựa chọn Nhà thầu thích hợp nhất hoặc chủ dự án có thể thoả thuận,
thuyết phục trực tiếp bên đối tác nhất định thực hiện dự án cho mình.
Tuy nhiên trong một nền kinh tế phát triển luôn tồn tại rất nhiều các
doanh nghiệp xây dựng( chính là các đối tác của chủ dự án) có các thế mạnh
và nhược điểm khác nhau, giữa các doanh nghiệp này luôn có sự cạnh tranh
gay gắt. Do đó, chủ dự án có rất nhiều cơ hội lựa chọn cho mình một đối tác
tốt nhất, để lựa chọn được thì chủ dự án nên chọn phương thức đấu thầu. Vậy,
đấu thầu là phương thức cần thiết để lựa chọn những Nhà thầu tốt nhất phù
hợp nhất để thực hiện toàn bộ hay từng phần dự án một cách có hiệu quả.
Việc tiến hành đấu thầu đem lại rất nhiều thuận lợi cho cả ba bên: Nhà nước,
chủ đầu tư và Nhà thầu.
Đứng trên phương diện Nhà nước, nhờ có đấu thầu, Nhà nước đã lựa
chọn được các Nhà thầu đáp ứng yêu cầu cơ bản của chủ đầu tư; các cơ quan
quản lý nhà nước có đủ thông tin thực tế và cơ sở khoa học để đánh giá đúng
năng lực thực sự của các Nhà thầu đồng thời tạo ra được thị trường xây dựng
minh bạch, cạnh tranh và bình đẳng. Mặt khác, đấu thầu đã nâng cao hiệu quả
dự án, chất lượng các công trình được cải thiện rất nhiều, tiết kiệm cho Nhà
nước hàng ngàn tỷ đồng.
Xét về phía Nhà thầu, qua đấu thầu đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm
trong cạnh tranh, tiếp thu được kiến thức về khoa học công nghệ tiên tiến hiện
5
đại trong việc xây dựng dự án lớn, có cơ hội để cạnh tranh với nhau trên
thương trường trong nước và quốc tế, từ đó có điều kiện để khẳng định mình
ở hiện tại và tương lai.
Còn về phía chủ đầu tư, có rất nhiều thuận lợi phải kể đến như có khả
năng tăng thêm nguồn lực từ bên đối tác, tạo cơ hội lựa chọn được Nhà thầu
tốt nhất với chi phí thấp nhất trong số rất nhiều ứng cử viên. Bên cạnh đó có
thể tăng chất lượng dự án, tăng cường các mối quan hệ, uy tín của công ty và
chủ đầu tư tăng lên rất nhiều.
Vậy, trong nền kinh tế thị trường, hoạt động đấu thầu là một phương
thức phổ biến và thực sự cần thiết để thực hiện dự án một cách hiệu quả.
2- Khái niệm, đặc điểm, yêu cầu đối với đấu thầu.
2.1 Khái niệm
Trên thực tế hiện nay tồn tại rất nhiều khái niệm, cách hiểu về đấu thầu.
Xuất phát từ Từ điển Tiếng việt, “ đấu thầu ” được hiểu là việc tổ chức cuộc
so đọ công khai ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được chấp
nhận. Theo đó thì “đấu thầu” là một cuộc đọ sức công khai giữa các tổ chức
về kỹ thuật và tài chính. Còn theo quan niệm chủ thầu( Bên mời thầu), cũng
như theo định nghĩa trong Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số
88/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ thì “đấu thầu” là quá trình lựa
chọn Nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở cạnh
tranh giữa các Nhà thầu. Xét theo quan niệm Nhà thầu thì “đấu thầu” là cuộc
cạnh tranh gay gắt giữa các Nhà thầu để nhận được dự án cung cấp các sản
phẩm hàng hoá và dịch vụ từ Bên mời thầu. Vậy đứng trên quan niệm Nhà
thầu và chủ thầu, “đấu thầu” là cuộc “thi tuyển” trong hoạt động xây dựng
giữa các Nhà thầu thoả mãn các yêu cầu của chủ thầu từ đó lựa chọn được
Nhà thầu thích hợp nhất.
Một số thuật ngữ liên quan theo Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo
Nghị định số 88/1999/NĐ- CP ngày 1/9/1999 của Chính phủ:
6
“Dự án” là tập hợp các đề xuất để thực hiện một phần hay toàn bộ công
việc đáp ứng mục tiêu hoặc yêu cầu nào đó. Dự án bao gồm dự án đầu tư và
dự án không có tính chất đầu tư.
“Người có thẩm quyền” là người đứng đầu hoặc người được uỷ quyền
theo quy định của pháp luật thuộc tổ chức, cơ quan nhà nước hoặc doanh
nghiệp.
“Cấp có thẩm quyền” là tổ chức, cơ quan được người có thẩm quyền
giao quyền hoặc uỷ quyền theo quy định của pháp luật.
“ Bên mời thầu ” là chủ dự án, chủ đầu tư hoặc pháp nhân đại diện hợp
pháp của chủ dự án, chủ đầu tư được giao trách nhiệm thực hiện công việc
đấu thầu.
“ Nhà thầu” là tổ chức, cá nhân trong nước hoặc nước ngoài có năng
lực pháp luật dân sự, đối với cá nhân còn phải có năng lực hành vi dân sự để
ký kết và thực hiện hợp đồng. Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây
lắp; là nhà cung cấp hàng hoá trong đấu thầu mua sắm hàng hoá; là nhà tư vấn
trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn; là nhà đầu tư trong đấu thầu lựa chọn đối
tác đầu tư.
“Gói thầu” là toàn bộ dự án hoặc một phần công việc của dự án được
phân chia theo tính chất kỹ thuật hoặc trình tự thực hiện dự án, có quy mô hợp
lý để bảo đảm tính đồng bộ của dự án. Trong trường hợp mua sắm, gói thầu
có thể là một loại đồ dùng trong thiết bị hoặc phương tiện. Gói thầu được thực
hiện theo một hoặc nhiều hợp đồng( gói thầu được chia thành nhiều phần).
“Xây lắp” là những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết
bị các công trình, hạng mục công trình.
Tóm lại, “đấu thầu” thực chất là quá trình thoả mãn các yêu cầu về kỹ
thuật, tài chính của cả hai chủ thể cơ bản tham gia vào quá trình đấu thầu để
thực hiện một dự án sao cho có hiệu quả nhất với chi phí thấp, tạo ra các công
trình có chất lượng cao.
7
2.2 Đặc điểm
Từ các khái niệm nêu trên ta có thể thấy có một số đặc điểm riêng đặc
trưng cho phương thức đấu thầu.
Thứ nhất, xét về chủ thể, chủ thể của đấu thầu có thể là cá nhân( trong
đấu thầu tuyển chọn tư vấn) hay bắt buộc phải là tổ chức( đấu thầu xây lắp và
đấu thầu mua sắm hàng hoá). Các tổ chức, cá nhân này muốn tham gia đấu
thầu phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu được quy định trong các văn bản quy
phạm pháp luật.
Thứ hai, khác với hình thức đấu giá chỉ có một người bán mà có nhiều
người mua, đấu thầu là phương thức có một người mua nhưng có rất nhiều
người bán. Trong đó chủ đầu tư là người mua, Nhà thầu là người bán, người
bán nào trả giá thấp nhất với chất lượng cao sẽ được người mua lựa chọn hay
chính là trúng thầu.
Chính các đặc điểm trên đã tạo ra cho đấu thầu những ưu điểm riêng
mà các hình thức lựa chọn Nhà thầu khác không có.
2.3 Yêu cầu với đấu thầu trong hoạt động xây dựng
Khi chủ đầu tư muốn tổ chức đấu thầu để lựa chọn Nhà thầu cho dự án
của mình, cả quy trình đấu thầu đó phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu nhất định
theo quy định của pháp luật. Yêu cầu đầu tiên đối với đấu thầu là việc lựa
chọn Nhà thầu phù hợp nhất nhưng phải đảm bảo tính cạnh tranh. Nếu không
đảm bảo tính cạnh tranh thì quy trình đấu thầu đó sẽ không bao giờ tồn tại
được. Thứ hai, chủ đầu tư muốn tiến hành đấu thầu chỉ khi đã xác định được
nguồn vốn để thực hiện dự án, điều này đảm bảo tính minh bạch và tiến độ
của hoạt động đấu thầu. Yêu cầu thứ ba đặt ra đối với đấu thầu là cả bên mời
thầu và Nhà thầu không được kéo dài thời gian thực hiện đấu thầu, phải luôn
bảo đảm tiến độ, hiệu quả của đấu thầu trong hoạt động xây dựng đồng thời
bên dự thầu phải có phương án kỹ thuật tối ưu, công nghệ hiện đại, có giá dự
thầu hợp lý khi tham gia đấu thầu, điều này tạo tính hiệu quả, chất lượng cho
dự án. Bên cạnh đó để tránh các tiêu cực thường xuất hiện trong hoạt động
8
đấu thầu, các Nhà thầu không được sử dụng tư cách pháp nhân của tổ chức
khác để tham gia dự thầu; dàn xếp; mua bán thầu; dùng ảnh hưởng của mình
làm sai lệch kết quả đấu thầu hoặc bỏ giá thầu thấp dưới giá thành xây dựng
công trình. Để thúc đẩy hoạt động xây dựng của nước ta phát triển thì khi Nhà
thầu trong nước tham gia đấu thầu quốc tế tại Việt Nam sẽ được hưởng chế độ
ưu đãi theo quy định trong Quy chế đấu thầu.
Bất cứ hành vi của Nhà thầu nào vi phạm các yêu cầu trên đều bị xử lý
một cách thích đáng như bị loại bỏ Hồ sơ dự thầu, không công nhận kết quả
đấu thầu...
3- Các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu thầu
Bất cứ hoạt động nào xuất hiện trong nền kinh tế đều có một quá trình
phát triển và đấu thầu cũng vậy. Đấu thầu đã manh nha xuất hiện ở nước ta từ
rất lâu nhưng trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, khi mà mọi công trình xây
dựng đều được thực hiện theo chỉ tiêu pháp lệnh, Nhà nước chỉ định cho các
đơn vị thực hiện xây lắp tuỳ theo kế hoạch mà Nhà nước đề ra hoặc căn cứ
vào mối quan hệ giữa các đơn vị đó với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mà
không qua đấu thầu. Với cơ chế này, không tồn tại khái niệm cạnh tranh trong
tất cả các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế nói chung và trong hoạt động đầu tư
xây dựng nói riêng, từ đó tạo ra nhiều tiêu cực, sai lầm gây thất thoát lớn cho
xã hội.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, khái niệm
cạnh tranh trở nên thông dụng. Trong hoạt động đầu tư xây dựng, các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật,
đều có cơ hội tham gia xây dựng các công trình ngang nhau nên giữa các
doanh nghiệp luôn tồn tại sự cạnh tranh. Nền kinh tế càng phát triển thì mức
độ cạnh tranh càng gay gắt. Đứng trước thực tế đó, hoạt động đấu thầu đã
xuất hiện và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, các doanh nghiệp xây
dựng có cơ hội được thể hiện mình một cách tốt nhất. Ở các nước phát triển,
9
đấu thầu đã được áp dụng từ lâu và mang lại hiệu quả to lớn, còn ở Việt Nam
hình thức này còn rất mới. Để tạo ra môi trường pháp lý nhằm tăng cường
hiệu quả của hình thức đấu thầu, cùng với việc tổ chức thực hiện, các văn bản
có tính quy chế được xây dựng, bổ sung và sửa đổi ngày càng hoàn thiện hơn.
- Đầu những năm 1990, trong các văn bản quản lý đầu tư xây dựng đã
xuất hiện “ Quy chế đấu thầu trong xây dựng” nhưng chưa rõ ràng.
- Tháng 3/1994- Bộ Xây dựng ban hành “ Quy chế đấu thầu xây lắp”
( Quyết định số 06/BXD- VKT thay cho Quyết định số 24/BXD- VKT
trước đây). Đây là văn bản được coi là Quy chế đấu thầu đầu tiên, theo
đó quy định tất cả công trình xây dựng thuộc sở hữu Nhà nước đều phải
thực hiện đấu thầu.
- Đến ngày 16/4/1994, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 183
TTg. Theo Quy chế này, các dự án dùng vốn Nhà nước( bao gồm Ngân
sách cấp, vốn vay, vốn viện trợ, vốn Nhà nước ở các doanh nghiệp) đều
phải qua đấu thầu, kết quả đấu thầu có vốn đầu tư trên 10 triệu USD
phải thông qua Hội đồng xét thầu quốc gia thẩm định để trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét và phê duyệt.
- Năm 1996, Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu kèm theo Nghị định
số 43/CP ngày 16/7/1996. Văn bản này mang tính pháp lý cao hơn và
phạm vi điều chỉnh rộng hơn, theo đó, “gói thầu” lần đầu tiên đã trở
thành đối tượng quản lý của công tác đấu thầu.
Nghị định 43/CP của Chính phủ đã được thay thế bằng Nghị định số
88/CP ngày 1/9/1999 và Nghị định này đã được bổ sung, sửa đổi bởi
Nghị định số 14/CP ngày 5/5/2000. Từ năm 1999 đến năm 2003, công
tác đấu thầu được điều chỉnh chủ yếu bằng Nghị định số 88/CP và Nghị
định số 14/CP, so với cơ chế cũ thì nhiều vấn đề đã sáng tỏ hơn,
phương pháp đánh giá để đấu thầu đã khoa học hơn, chuẩn mực hơn...
- Nền kinh tế ngày càng phát triển, yêu cầu đặt ra với đấu thầu ngày càng
cao. Để đáp ứng các yêu cầu đó, năm 2003, Chính phủ đã ban hành
10
Nghị định số 66/CP ngày 12/6/2003 sửa đổi bổ sung Quy chế đấu thầu
kèm theo Nghị định số 88/CP và Nghị định số 14/CP. Với 45% số điều
bổ sung Nghị định 88/CP và 13% số điều sửa đổi bổ sung Nghị định
14/CP đã tăng cường tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch trong đấu
thầu, bảo đảm hiệu quả kinh tế của dự án, tăng cường một bước công
tác thanh tra quản lý hoạt động đấu thầu và thực hiện hợp đồng, nâng
cao công tác quản lý thông tin về đấu thầu và Nhà thầu... Đặc biệt là
việc ban hành Luật Xây dựng với chương VI về lựa chọn Nhà thầu và
hợp đồng xây dựng đã thực sự là bước tiến cơ bản trong công tác quản
lý nhà nước về đấu thầu, tạo cho hoạt động đấu thầu ngày càng phù
hợp với xu thế hội nhập hiện nay.
4- Phạm vi, đối tượng áp dụng đấu thầu
Nhà nước ta chỉ quy định một số dự án bắt buộc phải tiến hành đấu thầu,
còn các dự án khác chỉ khuyến khích áp dụng. Trong đó các dự án bắt buộc
phải áp dụng phương thức đấu thầu:
- Các dự án đầu tư thực hiện theo Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng
có quy định phải thực hiện Quy chế đấu thầu.
- Các dự án liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc cổ phần có
sự tham gia của các tổ chức kinh tế nhà nước( các doanh nghiệp nhà
nước) từ 30% trở lên vào vốn pháp định, vốn kinh doanh hoặc vốn cổ
phần.
- Các dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của
nước ngoài được thực hiện trên cơ sở nội dung văn bản thoả thuận được
hai bên ký kết( bên tài trợ và bên Việt Nam). Trường hợp có những nội
dung liên quan tới quy định về đấu thầu trong dự thảo văn bản thoả
thuận khác với Quy chế đấu thầu này thì cơ quan được giao trách
nhiệm đàm phán ký kết thoả thuận phải trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định trước khi ký kết. Trường hợp văn bản thoả thuận
11
đã ký có những nội dung liên quan với quy định về đấu thầu khác với
Quy chế đấu thầu của Việt Nam thì áp dụng theo văn bản đã ký. Riêng
thủ tục để trình duyệt, thẩm định phê duyệt kế hoạch đấu thầu và kết
quả lựa chọn Nhà thầu thực hiện theo Quy chế đấu thầu tại Việt Nam.
- Các dự án cần lựa chọn đối tác đầu tư để thực hiện:
Đối với các dự án đầu tư trong nước, chỉ thực hiện khi có từ hai
nhà đầu tư trở lên cùng muốn tham gia một dự án;
Đối với dự án có vốn đầu tư nước ngoài, chỉ tổ chức đấu thầu
theo Quy chế đấu thầu khi có từ hai nhà đầu tư trở lên cùng
muốn tham gia một dự án hoặc Thủ tướng Chính phủ yêu cầu
phải đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư thực hiện dự án.
- Đầu tư mua sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc
của các cơ quan nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp nhà nước; đồ dùng
và phương tiện làm việc thông thường của lực lượng vũ trang. Bộ Tài
chính quy định chi tiết phạm vi mua sắm, trách nhiệm, quyền hạn của
đơn vị mua sắm theo Luật Ngân sách nhà nước.
Với các dự án trên, các quy định của Nhà nước đang ngày càng mở rộng
đối tượng áp dụng phương thức đấu thầu.
5- Phân loại đấu thầu trong xây dựng
Trên thực tế có rất nhiều cách phân loại đấu thầu khác nhau nhưng có
một số cách phân loại phổ biến như sau:
5.1- Phân loại theo phạm vi gói thầu đối với các Nhà thầu:
Dựa theo các lĩnh vực hoạt động khác nhau của dự án đem đấu thầu,
người ta có thể nhóm thành các loại đấu thầu như sau:
Đấu thầu trong nước: Đây là phương thức đấu thầu chỉ có các Nhà thầu
trong nước tham dự.
12
Đấu thầu quốc tế: Đây là phương thức đấu thầu có sự tham gia của Nhà
thầu trong nước và Nhà thầu ngoài nước tham dự. Đối với đấu thầu quốc tế
chỉ được áp dụng trong một số dự án nhất định.
5.2- Phân loại theo nội dung chung của công việc gọi thầu( đối tượng
của đấu thầu)
Dựa theo các lĩnh vực hoạt động khác nhau của dự án đem đấu thầu,
người ta có thể nhóm thành các loại đấu thầu như sau:
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình đấu thầu nhằm tuyển chọn một
công ty hoặc một cá nhân tư vấn có kinh nghiệm chuyên môn để thực hiện
các công việc có liên quan trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu
tư.
Đấu thầu mua sắm hàng hoá là phương thức đấu thầu nhằm tuyển chọn
nhà cung cấp hàng hoá, thiết bị, công nghệ( gồm cả việc cung cấp thiết bị
công nghệ cho việc thi công dự án) phù hợp đáp ứng các yêu cầu của dự án
đầu tư.
Đấu thầu xây lắp là phương thức đấu thầu mà sau khi giai đoạn chuẩn
bị dự án được hoàn tất, chủ đầu tư phải tổ chức tuyển chọn Nhà thầu xây
dựng phù hợp, thực hiện các công việc xây dựng và lắp đặt các công trình đáp
ứng các yêu cầu của dự án đầu tư. Đây cũng là một trong những giai đoạn rất
quan trọng trong đầu tư xây dựng.
Đấu thầu để chọn đối tác thực hiện dự án là loại đấu thầu để chọn nhà
đầu tư thực hiện dự án khi có những dự án chưa có nhà đầu tư hoặc cần gọi
thêm nhà đầu tư. Loại đấu thầu này áp dụng cho những dự án thuộc danh mục
đầu tư hàng năm do Chính phủ công bố hoặc nhà đấu tư