Một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, một vấn đề trong
cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có điều kiện nhằm tăng thu
nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình.
Bản chất thuật ngữ “đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư
là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao
động,.) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn
(các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai
54 trang |
Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2100 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng đầu tư phát triển vào các KCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
Luận văn
Thực Trạng Đầu Tư Phát
Triển Vào Các KCN ở
Việt Nam
2
Chương 1: Lý Thuyết Chung Về Đầu Tư
Phát Triển KCN
I/Lý Thuyết Chung:
1) Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước
Một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, một vấn đề trong
cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có điều kiện nhằm tăng thu
nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình.
Bản chất thuật ngữ “đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư
là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao
động,...) để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn
(các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai
2) Phân loại đầu tư:
* Đầu tư tài chính
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng
chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ)
hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát
hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài chính của tổ chức, cá
nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính
nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu
giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho Công ty thì đây lại là đầu
tư phát triển nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt
động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động
của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần
có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ
phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để
giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
3
* Đầu tư thương mại
Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán
với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại
đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại
thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi
bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và
người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng
thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc
đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản
xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung (chúng ta cần
lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất,
nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hoá một cách giả tạo,
gây khó khăn cho việc quản lý lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất,
làm tăng chi của người tiêu dùng).
* Đầu tư phát triển
Xét về bản chất chính là đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó
người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài
sản mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất
kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng
cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây
dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng
trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên
gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm lực của mọi
lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước.
Ở đây chúng ta thấy hoạt động đầu tư vào các khu công nghiệp chính là hoạt
động đầu tư phát triển,nên ta sẽ đi vào làm rõ khái niệm và vai trò của đầu tư phát
triển
4
3) Khu công nghiệp:
Khái niệm: Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp
chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công
nghiệp có ranh giới địa lý xác định,không có dân cư sinh sống do chính phủ hoặc
phủ tướng chính phủ ra quyết định thành lập.Doanh Nghiệp khu công nghiệp là
doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong khu công nghiệp,gồm doanh
nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ
II/Nội Dung Đầu Tư Phát Triển Khu Công Nghiệp:
1) Vai Trò Của Đầu Tư Phát Triển:
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế,kết quả nghiên
cứu của các nhà kinh tế cho thấy:muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì
tỉ lệ đầu tư phải đạt từ 15% đến 25% so với GDP tùy thuộc vào ICOR của mỗi
nước.
Đầu tư góp phần làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế đối với những ngành
nông,lâm,ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai,các khả năng sinh học do vậy
muốn đạt tốc độ tăng trưởng cao là rất khó khăn..Theo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới,muốn đạt tốc độ tăng trưởng cao cần tăng cường đầu tư vào khu vực
công nghiệp và dịch vụ.
Đầu tư quyết định sự ra đời,tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở,để tạo dựng
cơ sở vật chất,kỹ thuật của doanh nghiệp phải có vốn đầu tư.
2) Sự cần thiết trong việc thu hút đầu tư xây dựng các khu công nghiệp
-Đầu tư nước ngoài vào khu công nghiệp,khu chế xuất là nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho nguồn vốn phát triển kinh tế:Đối với Việt Nam,để tăng trưởng và phát
triển kinh tế đòi hỏi một khối lượng vốn đầu tư rất lớn,nguồn vốn trong nước chưa
thể đáp ứng nổi nhu cầu đó.Do đó thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN
5
là rất quan trọng vì KCN phản ánh tiềm năng phát triển công nghiệp của quốc gia
đó.Do vậy việc thu hút thêm nguồn vốn đầu tư vào các KCN là rất quan trọng.
Thu hút công nghệ:Việc tiếp thu công nghệ và kỹ năng quản lý,kinh nghiệm
là điều rất quan trọng đối với các nước đang phát triển,trong đó có VN.Thông qua
việc thu hút thêm đầu tư vào KCN sẽ là những hoạt động chuyển giao công
nghệ,qua đó chúng ta có thể có được những công nghệ tiên tiến hiện đại cũng như
kinh nghiệm quản lý của nước ngoài.
Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,hiện đại
hóa:Việc thu hút được nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào các KCN
sẽ làm cho cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp
và dịch vụ,giảm tỉ trọng nông nghiệp.Thực tế đã có rất nhiều nước thành công trong
công cuộc CNH-HĐH đất nước thành công nhờ một phần không nhỏ vào hoạt động
của KCN,KCX như Trung Quốc,Hàn Quốc,Nhật Bản,Đài Loan…Tại VN,sụ phát
triển và lớn mạnh của các KCN,KCX đã góp phần quan trọng đưa đất nước ta tiến
nhanh trên con đường CNH_HĐH đất nước.
III)Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển khu công nghiệp:
a)Vị trí địa lý
-Gần các tuyến giao thông đường bộ,đường hàng không,đường biển
-Có nguồn cung cấp nguyên vật liệu và lao động
Rõ ràng việc xây dựng các khu công nghiệp,khu chế xuất sẽ tận dụng được các đầu
vào sẵn có,làm giảm chi phí vận chuyển,có điều kiện mở rộng.
b)Vị trí kinh tế xã hội:
Các trung tâm đô thị vừa là trung tâm kinh tế,vừa là trung tâm chính trị.Do
đó sẽ là nơi tập trung nhiều ngành sản xuất,cơ sở vật chất kỹ thuật tốt,đội ngũ lao
động có trình độ cao,chuyên môn giỏi.Do vậy,hiện nay ở nước ta các KCN,KCX
6
chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn để tận dụng các điều kiện sẵn có,giảm rủi ro
cho các nhà đầu tư,tạo sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
c)Kết cấu hạn tầng:
Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến việc thu hút đầu tư vào KCN,KCX.
Với các nhà đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thì mối quan tâm là vị trí thì với
các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh lại là kết cấu hạ tầng:điện,nước,công trình công
cộng,đường xá cầu cống…tác động trực tiếp đến giá thuê đất,ảnh hưởng đến quyết
định của nhà đầu tư
d)Thị trường
Đối với các công ty nước ngoài,mục tiêu đầu tư vào KCN,KCX là tận dụng
thị trường nước chủ nhà,đưa nguồn vốn vào hoạt động sinh lợi tránh tình trạng ứ
đọng vốn,đồng thời có thể tận dụng được nguồn tài nguyên nhân công rẻ và thị
trường rộng lớn.
e)Vốn đầu tư nước ngoài:
Lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tư vào một quốc gia có tỷ lệ lớn
là vào KCN,vì thế hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài có ảnh hưởng rất lớn đến
nguồn vốn đầu tư vào KVN
f)Yếu tố chính trị:
Quan hệ chính trị tốt đẹp,ổn định sẽ là dấu hiệu tốt cho việc mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế.Thông thường những tác động này thể hiện ở:
-Việc dành cho các nước kém phát triển các điều kiện ưu đãi về vốn như vốn
ODA,các khoản cho vay ưu đãi…
-Tạo điều kiện xuất nhập khẩu nguyên liệu,sản phẩm,thiết bị công nghệ.
-Ký kết các hiệp ước thương mại giữa các chính phủ cho phép các tổ chức,cá
nhân,các đơn vị kinh tế đầu tư sang nước kia.
7
Chương II/Thực Trạng Đầu Tư Phát Triển Vào Các
KCN ở VN
I/Đầu tư hạ tầng và sản xuất khu công nghiệp:
A)Từ ngày 24/9/1991,thủ tướng chính phủ phê duyệt cấp giấy phép thành lập
KCN_KCX đầu tiên với quy mô 300ha tại TPHCM đến hết tháng 12/2001 trên địa
bàn cả nước đã có 69 dự án KCN-KCX được hình thành phát triển hoặc được
chính phủ cấp phép thành lập,trong đó 65 KCn tập trung,3 KCX,1 khu công nghệ
cao với tổng diện tích lên tới 10.500 ha,các khu CN được hình thành tại 27 tỉnh
thành,trong đó các tỉnh miền bắc có 15 KCN,miền trung có 13KCN và miền nam
có 1.
Về loại hình có 16 KCN hình thành trên cơ sở đã có 1 số doanh nghiệp công
nghiệp đang hoạt động,10 KCN phục vụ di dời,22 KCN có quy mô nhỏ ở đồng
bằng bắc bộ,duyên hải miền trung và đồng bằng sông cửu long,21 KCN mới được
xây dựng quy mô khá lớn,trong đó có 13 KCN là hợp tác với nước ngoài.
Tính đến thời điểm năm 2000 đã có 914 doanh nghiệp được cấp giấy phép
hoạt động trong các khu công nghiệp với tổng vốn kinh doanh đăng kí là 7,7 tỷ
USD,trong đó có 596 doanh nghiệp nước ngoài thuộc 24 quốc gia và vùng lãnh thổ
trên thế giới,có tổng vốn đầu tư là 6,4 tỷ USD chiếm 82% tổng vốn đăng kí kinh
doanh,345 doanh nghiệp trong nước có tổng vốn đăng kí là 18000 tỷ(tương đương
1,4 tỷ USD),chiếm 18% tổng vốn kinh doanh trong các khu công nghiệp được cấp
giấy phép.Ngành nghề phát triển trong các khu CN gồm các doanh nghiệp thuộc
các ngành công nghiệp nhẹ,điện tử,hóa chất,cơ khí chế tạo,luyện thép,dầu khí,chế
biến thức ăn gia súc,phân bón,dịch vụ thương mại xuất khẩu...Các doanh nghiệp tại
khu công nghiệp,khu chế xuất có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao nhờ khai thác
các nguồn lực từ bên ngoài kết hợp các nguồn lực từng vùng và địa phương.Chỉ
tính riêng 3 năm 1997-1999,giá trị sản lượng và xuất khẩu của các doanh nghiệp
trong khu CN cả nước là
8
Bảng giá trị sản lượng và xuất khẩu các doanh nghiệp KCN
Giá trị sản lượng
(triệu USD)
Giá trị xuất khẩu
(triệu USD)
Tăng trưởng sản
lượng
Tăng trưởng
xuất khẩu
1997 1.155 848
1998 1.871 1.300 61% 53%
1999 2.982 1.761 59% 35%
Năm 1999,các khu CN đóng góp 25% giá trị sản lượng công nghiệp và 16%
giá trị sản phẩm của cả nước,thu hút 140.000 lao động.Ngay trong các khu
CN,phần lớn các nhà máy có công nghệ tiên tiến,chất lượng sản phẩm cao đã trực
tiếp gia tăng tỉ lệ xuất khẩu các sản phẩm của khu CN,các khu CN đã thực sự tiếp
nhận được những phương pháp quản lý tiến bộ,kinh nghiệm về tổ chức kinh doanh
của các nước công nghiệp hàng đầu trên thế giới.
Tính đến cuối tháng 10/2007, cả nước đã có 154 KCN được thành lập với
tổng diện tích đất tự nhiên 32.831 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho
thuê đạt 21.775 ha, chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 92 KCN đã đi
vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758 ha và 62 KCN đang trong giai
đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích tự nhiên
12.073 ha.
Trong 10 tháng đầu năm 2007, cả nước có 13 dự án đầu tư phát triển kết cấu
hạ tầng KCN được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, thành lập các KCN Thạnh Đức,
tỉnh Long An (256 ha); KCN Minh Hưng, tỉnh Bình Phước (194 ha); KCN Việt
Hoà - Kenmark, tỉnh Hải Dương (46 ha); KCN Tân Phú, tỉnh Đồng Nai (54 ha);
KCN Thanh Bình, tỉnh Bắc Kạn (73,5 ha); KCN Bình Minh, tỉnh Vĩnh Long (131,5
ha); KCN Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình (71,2 ha); KCN Phía Nam Yên Bái, tỉnh Yên
Bái (137,8 ha); KCN Long Bình An, tỉnh Tuyên Quang (109 ha); KCN Bình Long,
tỉnh An Giang (28,56 ha); KCN Hoà Phú, tỉnh Đắk Lắk (181,73 ha) và mở rộng
KCN Việt Hương II, tỉnh Bình Dương (140 ha); KCN Mỹ Xuân B1 - Đại Dương,
9
tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (146 ha). Tổng diện tích KCN thành lập mới và mở rộng
đạt 1.569 ha.
Tính đến cuối tháng 10/2007, cả nước đã có 154 KCN được thành lập với
tổng diện tích đất tự nhiên 32.831 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp có thể cho
thuê đạt 21.775 ha, chiếm 66% tổng diện tích đất tự nhiên. Trong đó, 92 KCN đã đi
vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 20.758 ha và 62 KCN đang trong giai
đoạn đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản với tổng diện tích tự nhiên
12.073 ha.
Các KCN phân bố ở 55 tỉnh, thành phố trên cả nước, tập trung ở 3 Vùng kinh
tế trọng điểm miền Nam, miền Trung, miền Bắc với tổng số 110 KCN với tổng
diện tích đất tự nhiên trên 25.900 ha, chiếm gần 80% tổng diện tích các KCN cả
nước.
Trong 10 tháng đầu năm, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập và ban
hành quy chế hoạt động của KKT Đông Nam Nghệ An, tỉnh Nghệ An với diện tích
18.827 ha và KKT Vân Đồn với diện tích 210.100 ha, nâng tổng số KKT đã thành
lập lên 10 KKT gồm Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng áng, Vân
Phong, Phú Quốc, Chân Mây – Lăng Cô, Đông Nam Nghệ An, Vân Đồn với tổng
diện tích 559.867 ha.
Trong 10 tháng đầu năm, Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận bổ sung một
số KCN vào Quy hoạch, trong đó có một số KCN, dịch vụ, đô thị (Bắc Ninh, Tiền
Giang). Ngoại trừ một số KCN có trong Quyết định số 1107/QĐ-TTg đã được
thành lập, từ nay đến năm 2015, dự kiến có 109 KCN được thành lập mới với tổng
diện tích quy hoạch 29.326 ha và 30 KCN mở rộng với tổng diện tích mở rộng
6.174 ha.
Trong 10 tháng đầu năm 2007, các KCN đã thu hút được 432 dự án có vốn
đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 3.470 triệu USD, chiếm trên
30% tổng số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký của cả nước và tăng gần 2 lần so với
cùng kỳ năm ngoái. Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu hiện là các tỉnh dẫn đầu cả
nước về vốn đầu tư nước ngoài thu hút được với tổng vốn đầu tư trên 1,4 tỷ USD,
tiếp theo là Đồng Nai (470 triệu USD).
10
Về tình hình tăng vốn, trong 10 tháng đầu năm 2007 có 329 lượt dự án đầu
tư tăng vốn tổng số vốn đầu tư đăng ký tăng thêm 1.191 triệu USD, chiếm khoảng
45% số vốn tăng thêm của cả nước và tăng nhẹ so với so với cùng kỳ năm ngoái.
Trong 10 tháng đầu năm, các KKT thu hút được thêm trên 500 triệu USD, trong đó
có dự án Khu nghỉ cao cấp tại KKT Chân Mây – Lăng Cô (276 triệu USD).
Như vậy, trong 10 tháng đầu năm 2007, tính chung cả vốn đầu tư nước ngoài cấp
mới và tăng thêm vào các KCN, KCX đạt 4.661 triệu USD, chiếm trên 40% tổng
vốn đầu tư cấp mới và tăng thêm của cả nước và tăng gần 1,6 lần so với 10 tháng
đầu năm ngoái.
Tính đến cuối năm 2007, các KCN cả nước đã thu hút được trên 2.600 dự án
có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư trên 25,3 tỷ USD và gần 2.800 dự án
đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 137 nghìn tỷ đồng (chưa kể
các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KCN với tổng vốn đầu tư 976 triệu USD
và 43 nghìn tỷ đồng.
Tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của các KCN trên cả nước
đạt 54%, riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy trên 71%.
Cuối năm 2007,đã có khoảng 3.600 dự án trong các KCN cả nước đã đi vào sản
xuất kinh doanh với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt gần 12 tỷ USD và 80 nghìn tỷ
đồng.
Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN 10 tháng đầu năm
ước đạt gần 13 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái; giá trị xuất khẩu của
các doanh nghiệp KCN đạt khoảng 6 tỷ USD, tăng trên 20% so với cùng kỳ năm
ngoái; nộp ngân sách đạt gần 900 triệu USD.
Các doanh nghiệp KCN đã giải quyết việc làm cho gần 910 nghìn lao động trực
tiếp.
Cùng với dòng vốn đầu tư vào Việt Nam tăng cao, thời gian gần đây, các
KCN đạt kết quả tốt trong việc thu hút đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Tỷ
trọng vốn đầu tư nước ngoài vào KCN trong tổng vốn đầu tư thu hút được hàng
năm trên cả nước luôn ở mức 40-45%. Năm 2007, các KCN đã thu hút được trên 8
tỷ USD vốn FDI, chiếm trên 40% tổng vốn đầu tư nước ngoài trên cả nước.
11
Tính đến cuối tháng 5/2008, các KCN cả nước đã thu hút được trên 3200 dự án có
vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư gần 31,5 tỷ USD và 3.100 dự án đầu tư
trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 195 nghìn tỷ đồng. Riêng lĩnh vực
phát triển kết cấu hạ tầng KCN, có 31 dự án FDI với tổng vốn đầu tư 1.755 triệu
USD và 155 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư trên 61.160 tỷ đồng.
Điểm nổi bật trong thu hút đầu tư vào KCN thời gian qua là bên cạnh việc
tiếp tục thu hút các dự án quy mô vừa, các KCN đã thu hút được nhiều dự án quy
mô lớn, công nghệ cao như Samsung, Compal, Foxconn… Các dự án này sẽ có tác
động lớn tới sự phát triển công nghiệp, thu hút lao động của địa phương trong thời
gian tới, góp phần đáng kể tạo sự biến đổi về chất trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu
lao động của địa phương. Thực tế cho thấy, ngay từ khi đang trong giai đoạn xây
dựng nhà xưởng, tác động lan tỏa của các dự án này đã được thể hiện rõ trong việc
tạo việc làm cho người lao động địa phương và việc thu hút thêm các dự án vệ tinh
đầu tư vào khu vực lân cận.
Đến cuối tháng 5/2008, các KCN đã cho thuê được khoảng 14.374 ha đất
công nghiệp, đạt tỷ lệ lấp đầy diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê gần 50%,
riêng các KCN đã vận hành đạt tỷ lệ lấp đầy gần 74% (cho thuê được trên 13.108
ha đất công nghiệp).
Trong những tháng nửa đầu năm 2008, nước ta phải đối mặt với nhiều khó
khăn như tình hình lạm phát tăng cao, thâm hụt cán cân thương mại, Chính phủ
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, tỷ giá giữa VND – USD biến động lớn, ...
Mặc dù vậy tình hình phát triển các KCN trong cả nước vẫn đạt được những bước
phát triển tích cực, góp phần thúc đẩy sản xuất, nhanh chóng ổn định nền kinh tế.
Về tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN), 7 tháng đầu năm 2008, các
KCN trong cả nước đã thu hút được tổng cộng 4,03 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài
(ĐTNN) bao gồm 227 dự án mới với tổng vốn đầu tư đạt gần 2,8 tỷ USD và 201
lượt dự án tăng vốn với số vốn tăng thêm đạt trên 1,05 tỷ USD. Tính đến nay, các
KCN trên cả nước đã thu hút được gần 3.305 dự án có vốn ĐTNN với tổng vốn đầu
tư đăng ký đạt gần 33,8 tỷ USD.
12
Các tỉnh có lợi thế về thu hút vốn ĐTNN như Đồng Nai, Bình Dương, Bắc
Ninh tiếp tục phát huy được lợi thế. Trong 7 tháng đầu năm 2008, Bắc Ninh dẫn
đầu về thu hút vốn ĐTNN vào các KCN với 941,9 triệu USD (gồm 29 dự án mới
và 11 dự án tăng vốn). Tiếp theo là Đồng Nai với 861,5 triệu USD gồm 44 dự án
đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 361,1 triệu USD và 58 dự án tăng vốn với tổng
vốn tăng thêm 500,41 triệu USD; Cần Thơ - 554,45 triệu USD (trong đó có 2 dự án
đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 553 triệu USD và 2 dự án tăng vốn với tổng vốn
tăng thêm 1,45 triệu USD); KCN Việt Nam - Singapore VSIP với 346,03 triệu
USD (trong đó có 20 dự án đăng ký mới với tổng vốn đăng ký 285,12 triệu USD và
20 dự án tăng vốn với tổng vốn tăng thêm 60,9 triệu USD). Một số địa phương
khác cũng thu hút được trên 100 triệu USD vốn ĐTNN vào các KCN trong 7 tháng
đầu năm là Đà Nẵng, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hà Nội, Long An, Thái Bình.
Về thu hút vốn ĐT trong nước, trong 7 tháng đầu năm 2008 các KCN trong
cả nước cũng thu hút được một lượng lớn vốn ĐT trong nước. Các tỉnh thu hút
được nhiều vốn ĐT trong nước vào các KCN là Đồng Nai - 2.905,55 tỷ đồng, Đà
Nẵ