Sau khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển mạnh mẽ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh hoà nhập với nền
kinh tế toàn cầu đang tiến theo hướng hội nhập ở mức độ cao. Đến hết tháng 3
năm 2000 trên cả nước có 2.405 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký trên 35,959 tỉ
USD và vốn thực hiện đạt trên 16tỉ USD. Vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh qua
các năm: Nếu như thời kỳ 1991 -1995 chiếm 24,44% từ 1996 đến nay chiếm
khoảng 23,92% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh
tế và là nguồn bù đắp quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) đạt ở mức tương đối cao: Từ năm 1992-1997 tốc độ tăng trưởng bình
quân là 8,5%, năm 1997 là 8,2%, năm 1998 giảm đột ngột xuống còn 5,8%, năm
1999 giảm chỉ còn4,8%, mục tiêu năm 2000 là 5,5%-6% nhưng qua từng quý đã
vượt chỉ tiêu và cả năm đạt sấp xỉ 6,7%. Lạm phát giảm liên tục từ ba con số
xuống còn một con số hiện nay. Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, các quan hệ
thương mại quốc tế cũng ngày càng được mở rộng, hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá cũng ngày một gia tăng. Nếu như kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt
11,523 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 11,636 tỷ USD thì sang năm 2000
kim ngạch xuất khẩu đã đạt 14,3 tỷ USD tăng 24,1% và kim ngạch nhập khẩu đạt
15,2 tỷ USD tăng 30,63% so với năm 1999.
106 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2127 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
…………..o0o…………..
Luận văn
Thực trạng và giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng
đường biển ở công ty cổ phần
bảo hiểm Petrolimex
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 1
LỜI MỞ ĐẦU
Sau khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của
nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước
phát triển mạnh mẽ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh hoà nhập với nền
kinh tế toàn cầu đang tiến theo hướng hội nhập ở mức độ cao. Đến hết tháng 3
năm 2000 trên cả nước có 2.405 dự án còn hiệu lực, vốn đăng ký trên 35,959 tỉ
USD và vốn thực hiện đạt trên 16 tỉ USD. Vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh qua
các năm: Nếu như thời kỳ 1991 - 1995 chiếm 24,44% từ 1996 đến nay chiếm
khoảng 23,92% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh
tế và là nguồn bù đắp quan trọng cho thâm hụt cán cân vãng lai, góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) đạt ở mức tương đối cao: Từ năm 1992-1997 tốc độ tăng trưởng bình
quân là 8,5%, năm 1997 là 8,2%, năm 1998 giảm đột ngột xuống còn 5,8%, năm
1999 giảm chỉ còn 4,8%, mục tiêu năm 2000 là 5,5%-6% nhưng qua từng quý đã
vượt chỉ tiêu và cả năm đạt sấp xỉ 6,7%. Lạm phát giảm liên tục từ ba con số
xuống còn một con số hiện nay. Cùng với sự mở cửa của nền kinh tế, các quan hệ
thương mại quốc tế cũng ngày càng được mở rộng, hoạt động xuất nhập khẩu
hàng hoá cũng ngày một gia tăng. Nếu như kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt
11,523 tỷ USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 11,636 tỷ USD thì sang năm 2000
kim ngạch xuất khẩu đã đạt 14,3 tỷ USD tăng 24,1% và kim ngạch nhập khẩu đạt
15,2 tỷ USD tăng 30,63% so với năm 1999.
Do hoạt động xuất nhập khẩu tăng nhanh nên nhu cầu bảo hiểm đối với
hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng lớn và do hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu đã trở thành tập quán trong hoạt động ngoại thương nên nghiệp vụ này
vẫn là nghiệp vụ quan trọng trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp
bảo hiểm. Mặt khác, trao đổi buôn bán hàng hoá xuất nhập khẩu hiện nay vẫn
được vận chuyển chủ yếu bằng đường biển (khoảng 80% khối lượng hàng hoá)
do ưu điểm của loại hình vận chuyển này. Vì vậy, việc phát triển và hoàn thiện
các vấn đề về nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển là một yêu cầu quan trọng trong sự phát triển của mỗi doanh nghiệp
bảo hiểm nói riêng và trong toàn ngành bảo hiểm nói chung, nhất là trong điều
kiện thị trường trong nước và quốc tế có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay.
Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển
được ra đời, triển khai từ rất sớm và rất phát triển ở nhiều nước trên thế giới.
Song ở Việt Nam hiện nay khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này còn gặp rất
nhiều khó khăn và nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết đặc biệt là về vấn đề
nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ. Vậy làm thế nào để giải quyết những
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 2
vấn đề đó ? Nội dung của chuyên đề này sẽ bổ sung thêm một số giải pháp tích
cực nhằm hoàn thiện, phát triển và nâng cao hiệu quả trong quá trình kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm này.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)
được sự định hướng của các thầy cô giáo trong bộ môn bảo hiểm cùng với sự
động viên khuyến khích của các cán bộ công ty PJICO, em đã mạnh dạn chọn đề
tài: “Nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex” để
làm luận văn tốt nghiệp của mình.
Kết cấu của đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận bao gồm ba chương:
Chương I : Những vấn đề chung về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển.
Chương II : Thực trạng triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển ở công ty cổ phần bảo
hiểm Petrolimex (PJICO).
Chương III : Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nghiệp
vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển ở PJICO trong thời gian tới.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo CN-Nguyễn Thị Chính đã trực tiếp hướng
dẫn đề tài, các thầy cô trong bộ môn bảo hiểm cùng toàn thể các cán bộ công
nhân viên công ty bảo hiểm PJICO đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em
hoàn thành luận văn này một cách tốt đẹp.
Là một sinh viên năm cuối, mặc dù được trang bị những kiến thức cơ bản
song do trình độ nhận thức cũng như kinh nghiệm thực tế còn nhiều hạn chế nên
luận văn không tránh khỏi được những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến
đóng góp chân thành của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để luận văn này được
hoàn thiện hơn ./.
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 3
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ
XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Trên thế giới:
Bảo hiểm hàng hải đã có lịch sử rất lâu đời. Nó ra đời và phát triển cùng với
sự phát triển của hàng hoá và ngoại thương. Khoảng thế kỷ V trước công nguyên,
vận chuyển hàng hoá bằng đường biển đã ra đời và phát triển người ta biết tránh
tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách chia nhỏ, phân tán chuyên chở trên nhiều
thuyền khác nhau. Đây có thể nói là hình thức sơ khai của bảo hiểm hàng hoá.
Đến thế kỷ thứ XII thương mại và giao lưu hàng hoá bằng đường biển giữa các
nước phát triển. Nhiều tổn thất lớn xảy ra trên biển vì khối lượng và giá trị của
hàng hoá ngày càng tăng, do thiên tai, tai nạn bất ngờ, cướp biển... gây ra làm
cho giới thương nhân lo lắng nhằm đối phó với các tổn thất nặng nề có khả năng
dẫn tới phá sản họ đã đi vay vốn để buôn bán kinh doanh. Nếu hành trình gặp
phải rủi ro gây ra tổn thất toàn bộ thì các thương nhân được xoá nợ, nếu hành
trình may mắn thành công thì ngoài vốn vay họ còn phải trả chủ nợ một khoản
tiền lãi với lãi suất rất cao. Lãi suất cao và nặng nề này có thể coi là hình thức
ban đầu của phí bảo hiểm.
Năm 1182 ở Lomborde - Bắc Ý, hợp đồng bảo hiểm hàng hoá đã ra đời,
trong đó người bán đơn này cam kết với khách hàng sẽ thực hiện nội dung đã ghi
trong đơn. Từ đó hợp đồng bảo hiểm, người bảo hiểm đã ra đời với tư cách như
là một nghề riêng độc lập.
Năm 1468 tại Venise nước Ý đạo luật đầu tiên về bảo hiểm hàng hải đã ra
đời. Sự phát triển của thương mại hàng hải đã dẫn đến sự ra đời và phát triển
mạnh mẽ của bảo hiểm hàng hải và hàng loạt các thể lệ, công ước, hiệp ước quốc
tế liên quan đến thương mại và hàng hải như: Mẫu hợp đồng bảo hiểm của
Lloyd's 1776 và Luật bảo hiểm của Anh năm 1906 (MiA - Marine insurance Act
1906), công ước Brucxen năm 1924, Hague Visby 1986, Hămbua năm 1978,
Incoterms 1953,1980,1990,2000 ... Các điều khoản về bảo hiểm hàng hải cũng ra
đời và ngày càng hoàn thiện .
Nói về bảo hiểm hàng hải không thể không nói tới nước Anh và Lloyd's.
Nước Anh là một trong những nước có sự phát triển hiện đại về thương mại và
hàng hải lớn nhất trên thế giới. Có thể nói lịch sử phát triển của ngành hàng hải
và thương mại thế giới gắn liền với sự phát triển của nước Anh, thế kỷ XVII
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 4
nước Anh đã có nền ngoại thương phát triển với đội tàu buôn mạnh nhất thế giới
và trở thành trung tâm thương mại và hàng hải của thế giới. Do đó nước Anh
cũng là nước sớm có những nguyên tắc, thể lệ hàng hải và bảo hiểm hàng hải.
Năm 1779, các hội viên của Lloyd's đã thu thập tất cả các nguyên tắc bảo hiểm
hàng hải và quy thành một hợp đồng chung gọi là hợp đồng Lloyd's. Hợp đồng
này đã được Quốc hội Anh thông qua và được sử dụng ở nhiều nước cho đến
1982.Từ ngày 1/1/1982, đơn bảo hiểm hàng hải mẫu mới đã được Hiệp hội bảo
hiểm London thông qua và được sử dụng ở hầu hết các nước trên thế giới hiện
nay.
Không chỉ riêng bảo hiểm hàng hải, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế thế giới, các loại hình bảo hiểm cũng phát triển hết sức mạnh mẽ để đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội, văn hoá và giao
lưu quốc tế.
2. Ở Việt Nam:
Thời kỳ đầu, nhà nước giao cho một công ty chuyên môn trực thuộc Bộ Tài
chính kinh doanh bảo hiểm đó là công ty Bảo hiểm Việt Nam nay là Tổng công
ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt). Công ty Bảo hiểm Việt Nam được
thành lập ngày 17/12/1964 theo Quyết định số 179/CP và chính thức đi vào hoạt
động ngày 15/1/1965.
Trước năm 1964 Bảo Việt chỉ làm đại lý bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
cho công ty Bảo hiểm nhân dân Trung Quốc trong trường hợp mua theo giá FOB,
CF và bán theo giá CIF với mục đích là học hỏi kinh nghiệm.
Từ năm 1965 - 1975 Bảo Việt mới triển khai ba nghiệp vụ bảo hiểm đối
ngoại trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu. Từ sau 1970 Bảo Việt có
quan hệ tái bảo hiểm với Liên Xô (cũ), Ba Lan, Triều Tiên. Trước đó Bảo Việt
chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với Trung Quốc.
Từ năm 1975 - 1992 Bảo Việt đã triển khai thêm nhiều nghiệp vụ và mở
rộng phạm vi hoạt động. Từ chỗ chỉ có quan hệ tái bảo hiểm với một số nước xã
hội chủ nghĩa cũ thì trong thời kỳ này Bảo Việt đã có quan hệ đại lý, giám định,
tái bảo hiểm với hơn 40 nước trên thế giới. Năm 1965 khi Bảo Việt đi vào hoạt
động, Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc chung về Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển
bằng đường biển. Gần đây, để phù hợp với sự phát triển thương mại và ngành
hàng hải của đất nước, Bộ Tài chính đã ban hành quy tắc chung mới - Quy tắc
chung 1990 (QTC-1990) cùng với Luật Hàng hải Việt Nam. Quy tắc chung này
là cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh các vấn đề về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển.
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 5
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang có những bước phát triển mạnh
mẽ, xuất phát từ yêu cầu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định thu hút vốn
đầu tư nước ngoài thì việc đa dạng hoá các loại hình kinh doanh bảo hiểm là một
đòi hỏi thiết thực. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách trên, Nghị định 100/CP của
chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã được ban hành ngày 18/12/1993
đã tạo điều kiện cho nhiều công ty bảo hiểm ra đời và phát triển. Hiện nay với sự
góp mặt của 10 công ty bảo hiểm gốc trong cả nước, thị trường bảo hiểm Việt
Nam đã bắt đầu phát triển với sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty, nghiệp vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vẫn là một nghiệp vụ truyền thống mà các nhà
bảo hiểm Việt Nam vẫn duy trì và phát triển với các biện pháp, chiến lược, sách
lược giành thắng lợi trong cạnh tranh.
II. SỰ CẦN THIẾT, TÁC DỤNG VÀ VAI TRÒ CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ
XUẤT NHẬP KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Khái niệm :
Ta có thể định nghĩa: Bảo hiểm chính là một sự cam kết bồi thường của
người bảo hiểm đối với người được bảo hiểm về những thiệt hại, mất mát của đối
tượng bảo hiểm do những rủi ro đã thoả thuận gây ra với điều kiện người được
bảo hiểm góp cho người bảo hiểm một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm. Trong
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu thì người được bảo hiểm có thể là
người mua hoặc người bán tuỳ theo điều kiện thương mại và điều kiện cơ sở giao
hàng quy định trong hợp đồng mua bán mà hai bên đã thoả thuận với nhau. Đối
tượng bảo hiểm ở đây chính là hàng hoá đã được mua bảo hiểm.
2. Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển :
Ngành bảo hiểm đã ra đời do có sự tồn tại khách quan của các rủi ro mà con
người không thể khống chế được. Nếu có những rủi ro xảy ra mà không có các
khoản bù đắp thiệt hại kịp thời của các nhà bảo hiểm, đặc biệt là những rủi ro
mang tính thảm hoạ gây ra tổn thất rất lớn thì chủ tàu và chủ hàng gặp rất nhiều
khó khăn về tài chính trong việc khắc phục hậu quả do các rủi ro đó gây ra. Vì
vậy, sự ra đời và việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển trở thành một nhu cầu rất cần thiết và nó có những tác
dụng sau:
Thứ nhất, giảm bớt rủi ro cho hàng hoá do hạn chế tổn thất nhờ tăng cường
bảo quản kiểm tra đồng thời kết hợp các biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cũng đem lại lợi ích cho nền
kinh tế quốc dân, góp phần tiết kiệm và tăng thu ngoại tệ cho nhà nước. Khi các
đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nhập hàng theo giá FOB, CF, xuất theo giá
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 6
CIF, CIP sẽ tạo ra khả năng cạnh tranh của bảo hiểm trong nước với nước ngoài.
Nhờ có hoạt động bảo hiểm trong nước các chủ hàng không phải mua bảo hiểm ở
nước ngoài, nói cách khác là không phải xuất khẩu vô hình.
Thứ ba, khi các công ty có tổn thất hàng hoá xảy ra sẽ được bồi thường một
số tiền nhất định giúp họ bảo toàn được tài chính trong kinh doanh. Số tiền chi
bồi thường của các công ty hàng năm là rất lớn chiếm khoảng 60%-80% doanh
thu phí bảo hiểm.
Thứ tư, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia bảo hiểm đã trở thành
nguyên tắc thể lệ và tập quán trong thương mại quốc tế. Nên khi hàng hoá xuất
nhập khẩu gặp rủi ro gây ra tổn thất các bên tham gia sẽ được công ty bảo hiểm
giúp đỡ về mặt pháp lý khi xảy ra tranh chấp với tàu hoặc các đối tượng có liên
quan.
3. Vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển :
Do đặc điểm của vận tải biển tác động đến sự an toàn cho hàng hoá được
chuyên chở là rất lớn. Vì vậy vai trò của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển càng được khẳng định rõ nét :
Một là, hàng hoá xuất nhập khẩu phải vượt qua biên giới của một hay nhiều
quốc gia, người xuất khẩu và nhập khẩu lại ở xa nhau và thường không trực tiếp
áp tải được hàng hoá trong quá trình vận chuyển do đó phải tham gia bảo hiểm
cho hàng hoá. Ở đây, vai trò của bảo hiểm là người bạn đồng hành với người
được bảo hiểm.
Hai là, vận tải đường biển thường gặp nhiều rủi ro tổn thất đối với hàng hoá
do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây nên như: mắc cạn, đâm va, đắm chìm, cháy nổ,
mất cắp, cướp biển, bão, lốc, sóng thần.... vượt quá sự kiểm soát của con người.
Hàng hoá xuất nhập khẩu chủ yếu lại được vận chuyển bằng đường biển đặc biệt
ở những nước quần đảo như Anh, Singapore, Nhật, Hồng Kông... do đó phải
tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Ba là, theo hợp đồng vận tải người chuyên chở chỉ chịu trách nhiệm về tổn
thất của hàng hoá trong một phạm vi và giới hạn nhất định. Trên vận đơn đường
biển, rất nhiểu rủi ro các hãng tàu loại trừ không chịu trách nhiệm, ngày cả các
công ước quốc tế cũng quy định mức miễn trách nhiệm rất nhiều cho người
chuyên chở (Hague, Hague Visby, Hamburg....).Vì vậy các nhà kinh doanh phải
tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu.
Bốn là, hàng hoá xuất nhập khẩu thường là những hàng hoá có giá trị cao,
những vật tư rất quan trọng với khối lượng rất lớn nên để có thể giảm bớt thiệt
hại do các rủi ro có thể xảy ra, việc tham gia bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
trở thành một nhu cầu cần thiết.
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 7
Năm là, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã có lịch sử rất lâu đời do đó
việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển đã trở thành một tập quán, thông lệ quốc tế trong hoạt động ngoại thương.
Như vậy, việc tham gia bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển là rất quan trọng và ngày càng khẳng định vai trò của nó trong
thương mại quốc tế.
III. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP
KHẨU VẬN CHUYỂN BẰNG ĐƯỜNG BIỂN
1. Đặc điểm và trách nhiệm của các bên liên quan trong quá trình xuất nhập
khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường biển :
1.1. Đặc điểm quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng đường
biển.
- Việc xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua hợp đồng
giữa người mua và người bán với nội dung về: số lượng, phẩm chất, ký mã hiệu,
quy cách đóng gói, giá cả hàng hoá, trách nhiệm thuê tàu và trả cước phí, phí bảo
hiểm, thủ tục và đồng tiền thanh toán...
- Trong quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có sự chuyển giao quyền sở hữu
lô hàng hoá xuất nhập khẩu từ người bán sang người mua.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển qua biên giới quốc gia,
phải chịu sự kiểm soát của hải quan, kiểm dịch... tuỳ theo quy định, thông lệ của
mỗi nước. Đồng thời để vận chuyển ra (hoặc vào) qua biên giới phải mua bảo
hiểm theo tập quán thương mại quốc tế. Người tham gia bảo hiểm có thể là người
mua hàng (người nhập khẩu) hay người bán hàng (người xuất khẩu). Hợp đồng
bảo hiểm thể hiện quan hệ giữa người bảo hiểm và người mua bảo hiểm đối với
hàng hoá được bảo hiểm. Nếu người bán hàng mua bảo hiểm thì phải chuyển
nhượng lại cho người mua hàng, để khi hàng về đến nước nhập, nếu bị tổn thất
có thể khiếu lại đòi người bảo hiểm bồi thường.
- Hàng hoá xuất nhập khẩu thường được vận chuyển bằng các phương tiện
khác nhau theo phương thức vận chuyển đa phương tiện, trong đó có tàu biển.
Người vận chuyển hàng hoá đồng thời cũng là người giao hàng cho người mua.
Vì vậy người chuyên chở là bên trung gian phải có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc
hàng hoá đúng quy cách, phẩm chất, số lượng từ khi nhận của người bán đến khi
giao cho người mua hàng.
Quá trình xuất nhập khẩu hàng hoá có liên quan đến nhiều bên, trong đó có
bốn bên chủ yếu là: người bán (bên xuất khẩu), người mua (bên nhập khẩu),
người vận chuyển và người bảo hiểm. Vì vậy, cần phải phân định rõ ràng trách
®¹i häc kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
bïi v¨n khoa bé m«n b¶o hiÓm 8
nhiệm của các bên liên quan và khi tiến hành xuất nhập khẩu hàng hoá các bên
liên quan phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
1.2. Trách nhiệm của các bên liên quan.
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá thường được thực hiện thông qua ba
loại hợp đồng:
-Hợp đồng mua bán
-Hợp đồng vận chuyển
-Hợp đồng bảo hiểm
Ba hợp đồng này là cơ sở pháp lý để phân định trách nhiệm của các bên liên
quan và trách nhiệm này phụ thuộc điều kiện giao hàng của hợp đồng mua bán.
Theo các điều kiện thương mại quốc tế “INCOTERMS 2000” (International
Commercial Tearms) có mười ba điều kiện giao hàng được phân chia thành bốn
nhóm E, F, C, D có sự khác nhau về cơ bản như sau: Thứ nhất là nhóm E- quy
ước người bán đặt hàng hoá dưới quyền định đoạt của người mua ngay tại xưởng
của người bán (điều kiện E- giao tại xưởng); Thứ hai là nhóm F- quy ước người
bán được yêu cầu giao hàng hoá cho một người chuyên chở do người mua chỉ
định (nhóm điều kiện F: FCA, FAS và FOB); Thứ ba là nhóm C- quy ước người
bán phải hợp đồng thuê phương tiện vận tải, nhưng không chịu rủi ro về mất mát
hoặc hư hại đối với hàng hoá hoặc các phí tổn phát sinh thêm do các tình huống
xảy ra sau khi đã gửi hàng và bốc hàng lên tàu (nhóm điều kiện C: CFR, CIF,
CPT và CIP); Thứ tư là nhóm D- quy ước người bán phải chịu mọi phí tổn và rủi
ro cần thiết để đưa hàng hoá tới địa điểm quy định (nhóm điều kiện D: DAF,
DES, DEQ, DDU, DDP). Trong đó thông dụng nhất là điều kiện FOB, CFR và
CIF.
Trong các điều kiện giao hàng, ngoài phần giá hàng, tuỳ theo từng điều kiện
cụ thể mà có thêm cước phí vận chuyển và phí bảo hiểm. Có những điều kiện
giao hàng mà người bán không có trách thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm
cho hàng hoá. Như vậy, tuy bán được hàng nhưng dịch vụ vận chuyển và bảo
hiểm sẽ do người mua đảm nhận (điều kiện FOB). Có trường hợp giao hàng theo
điều kiện mà ngoài việc xuất khẩu được hàng hoá, người bán còn có trách nhiệm
thuê tàu vận chuyển và mua bảo hiểm cho hàng hoá (điều kiện CIF). Thực tế, các
tập đoàn