Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay

Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới trong nă m qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, đặt ra yêu cầu và thách thức mới ,đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường vốn mà nổi bật là thị trường chứng khoán. Xuất phát những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầ u thiết yếu. Giúp chúng ta hội nhập nhanh và tiến kịp với trình độ của các nước trên thế giới. Xuất phát từ thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, với những thành tựu đã đạt được trong 6 năm ra đời và phát triển, cùng với những hạn chế yếu ké m còn tồn tại. Tôi chọn đề tài để nghiên cứu và hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, phân tích những cái chúng ta đã làm được, nhưng cái còn chưa làm được. Từ đó đề ra những giải pháp góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiệ n nay. Đề án gồm 3 chương: -Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chứng khoán -Chương 2: Khái quát về thị trường chứng khoán -Chương 3: Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay

pdf33 trang | Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2376 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay Lời mở đầu Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại Thế Giới trong năm qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, đặt ra yêu cầu và thách thức mới ,đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường vốn mà nổi bật là thị trường chứng khoán. Xuất phát những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầu thiết yếu. Giúp chúng ta hội nhập nhanh và tiến kịp với trình độ của các nước trên thế giới. Xuất phát từ thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, với những thành tựu đã đạt được trong 6 năm ra đời và phát triển, cùng với những hạn chế yếu kém còn tồn tại. Tôi chọn đề tài để nghiên cứu và hiểu rõ hơn về thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, phân tích những cái chúng ta đã làm được, nhưng cái còn chưa làm được. Từ đó đề ra những giải pháp góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Đề án gồm 3 chương: -Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chứng khoán -Chương 2: Khái quát về thị trường chứng khoán -Chương 3: Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay Chương I: Các vấn đề cơ bản về chứng khoán I) Khái niệm và đặc điểm Chứng khoán là nhân tố cơ bản hình thành nên tài chính chứnh khoán , là một loại hàng hoá đặc biệt là công cụ huy động vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn ,từ người cung vốn đến người cầu vốn. “ Chứng khoán là những giấy tờ có giá có khả năng chuyển nhượng xác định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư) ,xác nhận quyền sở hữu của quyền đòi nợ hợp pháp, boa gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời hạn nào đó” Như vậy chứng khoán là một loại hàng hoá vốn không có giá trị sử dụng như loại hàng hoá vật chất khác. Ngưòi ta bỏ tiền mặt ra mua chúng vì khả năng mang lại thu nhập trong tương lai đươc chứng nhận trên những tờ giấy chứng khoán .Tính hiện thực của khả năng này đòi hỏi người mua phải quan tâm đến đơn vị phát hành như kết quả kinh doanh trước đó, tình hình chứng khoán, thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc… Hay nói cách khác những đặc điểm mà nhà đàu tư cần quan tâm đến khi quyết định có nắm giữ một chứng khoán hay không dó là tính thanh khoản tính rủi ro và tính sinh lợi. Thứ nhất : Tính thanh khoản hay là tính lỏng là quy đổi ra tiền mặt của chứng khoán đó. Khả năng này phụ thuộc vào thời gian, chi phí cần thiết cho việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển đổi. Như vậy chứng khoán có tính khoản cao thì thưòng đi đôi vói lợi nhuận thấp. Ví dụ : trái phiếu chính phủ luôn có lãi suất thấp hơn so với trái phiếu công ty. Thứ hai : Tính rủi ro, một chứng khoán có thể chịu tác động của rủi ro hệ thống và rủi ro không có hệ thống .Rủi ro có tính hệ thống hay rủi ro thị trường là loại rủi ro tác động tới hầu hết các tài sản bao gồm rủi ro lạm phát, rủi ro lãi suất ,rủi ro về tỷ giá hối đoái…Sự biến động giá trái phiếu do những thay đổi của lãi suất được gọi là rủi ro lãi suất.Loại rủi ro này có hai đặc tính quan trọng.Một là giá trái phiếu thay đổi ngược chiều với lãi suất.Lãi suất tăng sẽ khiến giá trái phiếu giảm, lãi suất giảm lại làm tăng giá trái phiếu.Hai là mức biến động giá trái phiếu sẽ tăng cao khi kỳ hạn của trái phiếu kéo dài.Rủi ro lạm phát hay rủi ro về sức mua xuất hiện vì sự thay đổi trong giá trị của đồng tiền mặt của trái phiếu do lạm phát khi đo lường giá sức mua.Rủi ro về tỷ giá xảy ra đối với những trái phiếu được thanh toán bằng ngoại tệ. Dòng tiền mặt nội tệ phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái tại thời điểm các khoản lợi tức được thanh toán.Thí dụ giả sử rằng nhà đầu tư mua trái phiếu thanh toán băng đô la.Khi đô la giảm giá so với đồng tiền VNĐ thì đồng tiền nhận được ít hơn tại thời điểm thanh toán và ngược lại. Rủi ro không có tính hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản hoặc một nhóm nhỏ các tài sản.Loại rủi ro này thường liên quan đến điều kiện và khả năng hoàn trả nợ của nhà phát hành.Mọi chứng khoán(trừ chứng khoán chính phủ)đều chịu ảnh hưởng của khả năng này. Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét đánh giá các rủi ro liên quan,trên cơ sở đề ra các quyết định trong việc lựa chọn năm giữ hay bán chứng khoán.Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay sự cân bằng về lợi tức.Muốn có lợi nhuận phải chấp nhận rủi ro.Lợi nhuận cao rủi ro ngầm chứa càng lớn.Ngược lại tiềm tàng càng lớn lợi nhuận kỳ vọng đòi hỏi phải càng cao. Thứ ba : Tính sinh lợi :Chứng khoán là một loại tài sản mà khi sở hữu nó nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương lai.Thu nhập này được đảm bảo bằng lợi tức được phân chia hàng năm và việc tăng giá chứng khoán trên thị trường. Người mua thường chấp nhận một mức sinh lời thấp để đổi lấy tính thanh khoản cao.Tính rủi ro và tính thanh khoản có quan hệ ngược chiều nhau.Một chứng khoán càng có nhiều rủi ro càng ít tính thanh khoản và do đó mức lời trả cho chứng khoán đó sẽ cao,đó thường là chứng khoán dài hạn.Ngược lại các trái phiếu kho bạc ngắn hạn có tính thanh khoản cao,ít rủi ro hơn và do đó mức sinh lời cũng thấp. II). Phân loại chứng khoán: Tuỳ theo cách chọn tiêu chí người tacó thể phân loại chứng khoán ra thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có thể chia chứng khoán theo ba tiêu chí chủ yếu, đó là theo tính chất của chứng khoán , theo khẳ năng chuyển nhượng và theo khả năng thu nhập. Cách phân chia này tạo điều kiện cho người đầu tư nhận biết đễ dàng các loại chứng khoán đang lưu thông và giúp họ lựa chọn cách thức đâu tư phù hợp 1 .Phân loại chứng khoán theo tính chất: Theo tính chất của chứng khoán các loại chứng khoán được phân thành : Chứng khoán vốn ; Chứng khoán nợ ; Chứng khoán phát sinh. 1.1 Chứng khoán vốn: Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu phần vốn và các quyền hợp pháp khác đối với tổ chức phát hành. Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư. Cổ phiếu là loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoăc bút toán ghi sổ , xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp phápđối với tài sản hoăc vốn của công ty cổ phần . Cổ phiếu là công cụ tài chínhcó thời hạn thanh toán là vô thời hạn. Khi tham gia mua cổ phiếu các nhà đầu tư trở thành cổ đông cuả công ty cổ phần. Cổ đông có thể tiến hành mua bán chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. 1.2 Chứng khoán nợ: Chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu , tín phiếu là một koại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả người đứng tên sở hữu chứng khoán (ngưòi cho vay) một khoản tiền nhất định gồm cả gốc lẫn lãi trong những khoảng thời gian cụ thể. Những đặc trưng cơ bản của trái phiếu: -Mệnh giá và lãi suất cuống phiếu: +Mệnh giá của một trái phiếu là tiền ghi trên bề mặt trái phiếu, đến thời điểm thanh toán (đáo hạn) của trái phiếu , tổ chức phát hành phải trả cho người sở hữu hợp pháp trái phiếu +Lãi suất cuống phiếu là lãi suất tổ chức phát hành sẽ trả cho người sở hữu trái phiếu khi đến hạn thanh toán. Lãi suất nhân với mệnh giá sẽ cho lãi cuống phiếu. Thông thường lãi suất cuống phiếu là lãi suất danh nghĩa. - Thời gian đáo hạn: Thời gian đáo hạn của trái phiếu là thời gian chấm dứt khoản nợ , tổ chức phát hành sẽ thu hồi trái phiếu bằng cách hoàn trả gốc và lãi cho người sở hữu . Thời gian đáo hạn cua trái phiếu thông thường là dài hạn. Nếu thời gian đáo hạncủa một trái phiếu càng dài thì mức độ biến động của trái phiếu càng lớn. 1.3 Chứng khoán phái sinh : Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ vói chứng khoán gốc. Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch của người mua và người bán phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của thị trường chứng khoán . Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các loại như sau : a)Quyền mua trước: Quyền mua trước hay còn gọi là đặc quyền mua là một quyền ưu đãi đươc gắn vói một cổ phiếu đang đươc lưu hành , do công ty phát hành ra cổ phiếu đó để huy động thêm vốn cổ phần , quyền mua trước cho phép người sở hữu những những cổ phần đang lưu hành đươc mua nhất định một số cổ phiếu trong đợt phát hành mới của công ty , tại một mức giá xác dịnh thấp hơn mức chào ra công chúng trong một thời hạn nhất định.Các quyền này cũng được chuyển nhượng giữa các cổ đông có quyền thụ hưởng quyền và các nhà đầu tư khác.Thông thường quyền mua trước có thời hạn ngắn là chủ yếu (từ 2-4tuần) và việc phát hành quyền được quy định trong điều lệ tổ chức của công ty. Mức giá đăng kí trong tất cả các dạng quyền mua trước thấp hơn mức giá hiện hành cua cổ phiếu vào thời điểm phát hành. Giá trị của quyền mua trước được xác định: M= (P-F)/(N+1) trong đó : P là thị giá cổ phiếu, F :là giá ưu đãi của chứng quyền, N :là định mức số cổ phiếu cũ để mua một cổ phiếu mới Trong trường hợp các cổ đông không muốn thực hiện quyền họ có thể bán chúng trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn.Giá quyền phụ thuộc vào giá thị trường của cổ phiếu. b)Chứng khế hay bảo chứng phiếu: là giấy tờ được phát hành cùng với trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi trong đó xác nhận quyền được mua chứng khoán theo những điều kiện nhất định của người sở hữu nó.Quyền này được phát hành trong trường hợp tổ chức lại công ty hoặc khi công ty phát hành nhằm mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các cổ phiếu hoặc trái phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi Gía định trước hay giá đặt mua trên chứng khế cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường và chứng khế có khì hạn dài hơn chứng quyền một vài năm Chứng khế thường có tính chất tách rời được, nghĩa là chứng khế có thể được mua hoặc bán tách rời chứng khoán mà nó phát hành kèm theo. Nếu giá thị trường của cổ phiếu thường cao hơn gía đặt mua của cổ phiếu thì chứng khế sẽ có giá trị còn ngược lại chứng khế sẽ không có giá trị Gía trị chứng khế = Gía trị nội tại + Giá trị thờ gian Gía trị nội tại =(Gía trị cổ phần – Gía trị hiện thực) x Số cổ phần được mua Chứng khế Khi chứng khế được thực hiện sẽ làm tăng số lượng cổ phần của TCPH .Điều này sẽ làm giảm giá cổ phần do ảnh hưởng đến lợi nhận tính cho mỗi cổ phần.Việc xác định giá chứnh khế được tiến hành theo phương pháp áp dụng đối vơí hợp đồng quyền chọn mua kiểu Mỹ song có tính hiệu ứng “pha loãng” lợi nhận của quyền. Gía hợp lý của chứng quyền = Pc x số cổ phần được mua của chứng quyền 1+q Trong đó: Pc: là giá trị của hợp đồng quyền chọn mua kiểu Mỹvới giá thực hiện và thời gian đáo hạn giống như thực tế q : là tỷ lệ tăng trưởng số cổ phần nếu như tất cả các chứng khếđều được thực hiện c)Hợp đồng kì hạn: là thoả thuận giữa các bên về việc mua hoặc bán những hàng hoá nhất định trong tương lai .Hợp đồng trao đổi không kì hạn trên thị trường không được định giá hàng ngày. Giá trong hợp đồng kì hạn là giá giao hàng ngày, tại thời điểm kí hợp đồng giá chuyển giao được chọn để giá trị của hai bên mua bán là bằng không điều này có nghĩa là không có chi phí trong hợp đồng mua bán kì hạn.Hợp đồng kì hạn được nhà đầu tư sử dụng để tiến hành đầu cơ và bảo hộ. d) Hợp đồng tương lai: Là hợp đồng mà trong đó một người bán cam kết giao một số hàng hoá nào đó ( CK) và người mua sẽ trả tiền khi nhận hàng hoá do (CK), vớ một giá nhất định vào một ngày nhất định trong tương lai được xác định trước ở hiện tại tại thời điểm kí kết hợp đồng .Để tránh mọi thiệt hại khi hợp đồng không được tôn trọng, cả hai bên đều được yêu cầu khí quỹ vào lúc khí hợp đồng Các hợp đồng tương lai có thể đựoc thực hiện thông qua giao hàng hoặc bù đắp .Tuy nhiên số các hợp đồng trong tương lai được thực hiện rất ít, còn hầu hết chúng được bù đắp trước tháng giao hàng .Cho dù có hợp đồng , nhưng việc giao hàng không nhất thiết phải được thực hiên. Các thành viên tham gia thị trường này không phải giao hoặc nhận hàng trừ khi họ có khả năng hoặc mong muốn được điều đó.Ngưòi chủ mỗi hợp đồng dù là người mua hay là người bán đều có quyền bù đắp hợp đồng. e) Quyền chọn : Là một kiểu hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên cho bên kia được quyền mua hoặc bán một loại hàng hoá cụ thể hoặc một lượng chứng khoán nào đó với một giá xác định trong một thời hạn nhất định. Một hợp đồng quyền chọn bất kì đều bao gồm bốn đặc điểm cơ bản: loại quyền, tên hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua hoặc bán theo quyền, ngày đáo hạn, giá thực thi .Có bốn đối tượng tham gia trên thị trường quyền chọn: ngưòi mua quyền mua, người bán quyền mua ,người mua quyền bán, ngưòi bán quyền bán. Người mua được xem là nhà đầu tư có vị thế dài hạn và người bán ở vị thế ngắn hạn trên hợp đồng. Việc bán hợp đồng quyền chọn được gọi là phát hành quyền chọn.Trong một hợp đồng quyền chọn , người bán trao quyền cho người mua để đổi lấy một khoản tiền được gọi là phí quyền chọn hay còn gọi là giá quyền chọn.Mức giá mà tại đó quyềnchọn được thực hiện gọi là mức giá thi quyền. Các bộ phận cấu thành nên giá quyền chọn -Giá trị nội tại của quyền chọn:là giá trị mà người nắm giữ quyền chọn sẽ nhậ được bằng cách thực hiện thực hiện quyền được ngay lập tức -Giá trị thời gian củ quyền chọn là khoản chênh lệch giữa giá của quyền chọn so với giá nội tại .Thời gian cho đến khi đáo hạn càng dài thì giá tri thời gian của quyền càng lớn. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn: Giá thị trường của chứng khoán cơ sở,giá thực hiện,thời gian cho đến khi đáo hạn,lãi suất ngắn hạn trong suốt thời gian tồn tại chứng quyền,lãi suất coupon. Quyền chọn được nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro và sử dụng để đầu cơ. 2) Phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng: Theo cách này chứng khoán được phân thành chứng khoán ghi danh (ghi tên) và chứng khoán vô danh (không ghi tên). 2.1)Chứng khoán vô danh(giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ không ghi tên chủ sở hữu) : Loại chứng khoán này được chuyển nhượng dễ dàng , không cần những thủ tục xác nhận của công ty hoặc cơ quan công chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được xác định. 2.2) Chứng khoán ghi danh (xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền nợ có ghi tên chủ sở hữu) loại chứng khoán này được phép chuyển nhượng nhưng phải theo nhưng quy định pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng người sở hữu phải chứng minh mình là người được phép và có quyền chuyển nhượng (xác nhận chữ kí ,chứng minh thư ,tên trong danh sách cổ đông) 3. Phân loại chứng khoán theo thu nhập Tuỳ theo từng loại thu nhập , chứng khoán được chia thành các loại sau: 3.1) Chứng khoán có thu nhập cố định Chứng khoán có thu nhập cố định là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu nhập cố định không phụ thuộc vào kêt quả hoạt động của nhà phát hành. Nó có thể là chứng khoán vô danh hoặc chứng khoán đích danh, có thể là tín phiếu , trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi. Theo đối tượng phát hành, chứng khoán có thu nhập cố định bao gồm những loại chủ yếu sau: Trái phiếu nhà nước , Trái phiếu địa phương , Trái phiếu công nghiệp (trái phiếu công ty) ,Trái phiếu ngân hàng và Tín phiếu quỹ tiết kiệm ,Tín phiếu kho bạc. 3.2) Chứng khoán có thu nhập biến đổi Cổ phiếu thường đại diện cho loại chứng khoán có thu nhập biến đổi. Thu nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức (hay lợi tức cổ phần ), nó biến động theo kêt quả kinh doanh của công ty. Hình thức khác của loại chứng khoán này là phiếu tham gia hay chứng chỉ đầu tư. Loại này khác với cổ phiếu thông thường ở chỗ, nó không được quyền tham gia giám sát hoạt động của côngty.Khi phát hành chứng chỉ đầu tư, công ty có thể huy động vốn vô thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ phiếu ưu đãi hay trái phiếu, song không bị pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông 3.3) Chứng khoán hỗn hợp Hình thức hỗn hợp của chứng khoán vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập cố định, vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập biến đổi. Việc phát hành loại cứng khoán này nhằm để thích ứng với nhu cầu đặc biệt của thị trườngvốn. Chứng khoán hỗn hợp có những loại chủ yếu sau : Trái phiếu công ty có khả năng chuyển đổi ; Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu ; Trái phiếu có thu nhập bổ sung III.Phát hành chứng khoán 1. Khái niệm về phát hành chứng khoán Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán. Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ sung. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới có được quyền này. 2. Phương thức phát hành chứng khoán 2.1 Phân loại theo đợt phát hành . Theo tiêu thức này người ta phân chia phương thức phát hành thành phát hành chứng khoán lần đầu và phát hành các đợt tiếp theo. a)Phát hành chứng khoán lần đầu là việc tổ chức phát hành chứng khoán lần đầu tiên sau khi đã đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của UBCKNN b)Phát hành các đợt tiếp theo là hoạt động phát hành nhằm mục đích tăng thêm vốn của tổ chức phát hành và giao dịnh trên thị trường thứ cấp 2.2) Phân loại theo đối tượng mua chứng khoán a.Phát hành riêng lẻ (Private Placement) Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ, việc phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện dưới hình thức này. Các doanh nghiệp thường lựa chọn phát hành riêng lẻ bỏi một số nguyên nhân sau: - Công ty không đủ tiêu chuẩn để phát hành ra công chúng. - Số lượng vốn cần huy động nhỏ , mục đích chọn phát hành riêng lẻ để giảm chi phí - Công ty phát hành cổ phiếu nhằm mục đính duy trì các mối quan hệ trong kinh doanh. Ví dụ như phát hành cổ phiếu cho các nhà cung cấp tiêu thụ sản phẩm , phát hành cho các đối tác… -Phát hành cho cán bộ công nhân viên chức của công ty. b.Phát hành chứng khoán ra công chúng Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi phát hành trên thị trường sơ cấp chứng khoán sẽ được giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán của SGDCK. Tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự quản lý, giám sát riêng theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việc phát hành ra công chúng được phân biệt bằng hai hình thức: phát hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng. Trường hợp phát
Tài liệu liên quan