Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương
Mại Thế Giới trong nă m qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, đặt ra yêu
cầu và thách thức mới ,đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với
tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây
dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường vốn mà
nổi bật là thị trường chứng khoán.
Xuất phát những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường chứng
khoán trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường
chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầ u
thiết yếu. Giúp chúng ta hội nhập nhanh và tiến kịp với trình độ của các
nước trên thế giới.
Xuất phát từ thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, với
những thành tựu đã đạt được trong 6 năm ra đời và phát triển, cùng với
những hạn chế yếu ké m còn tồn tại. Tôi chọn đề tài để nghiên cứu và hiểu rõ
hơn về thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, phân tích
những cái chúng ta đã làm được, nhưng cái còn chưa làm được. Từ đó đề ra
những giải pháp góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiệ n
nay.
Đề án gồm 3 chương:
-Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chứng khoán
-Chương 2: Khái quát về thị trường chứng khoán
-Chương 3: Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay
33 trang |
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2367 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK
Việt Nam hiện nay
Lời mở đầu
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương
Mại Thế Giới trong năm qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, đặt ra yêu
cầu và thách thức mới ,đòi hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với
tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa. Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây
dựng và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong đó có thị trường vốn mà
nổi bật là thị trường chứng khoán.
Xuất phát những chức năng, vai trò quan trọng của thị trường chứng
khoán trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển thị trường
chứng khoán ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu cầu
thiết yếu. Giúp chúng ta hội nhập nhanh và tiến kịp với trình độ của các
nước trên thế giới.
Xuất phát từ thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, với
những thành tựu đã đạt được trong 6 năm ra đời và phát triển, cùng với
những hạn chế yếu kém còn tồn tại. Tôi chọn đề tài để nghiên cứu và hiểu rõ
hơn về thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay, phân tích
những cái chúng ta đã làm được, nhưng cái còn chưa làm được. Từ đó đề ra
những giải pháp góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam hiện
nay.
Đề án gồm 3 chương:
-Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chứng khoán
-Chương 2: Khái quát về thị trường chứng khoán
-Chương 3: Thực trạng và giải pháp phát triển TTCK Việt Nam hiện nay
Chương I: Các vấn đề cơ bản về chứng khoán
I) Khái niệm và đặc điểm
Chứng khoán là nhân tố cơ bản hình thành nên tài chính chứnh khoán , là
một loại hàng hoá đặc biệt là công cụ huy động vốn từ nơi thừa vốn sang nơi
thiếu vốn ,từ người cung vốn đến người cầu vốn.
“ Chứng khoán là những giấy tờ có giá có khả năng chuyển nhượng xác
định số vốn đầu tư (tư bản đầu tư) ,xác nhận quyền sở hữu của quyền đòi nợ
hợp pháp, boa gồm các điều kiện về thu nhập và tài sản trong một thời hạn
nào đó”
Như vậy chứng khoán là một loại hàng hoá vốn không có giá trị sử dụng
như loại hàng hoá vật chất khác. Ngưòi ta bỏ tiền mặt ra mua chúng vì khả
năng mang lại thu nhập trong tương lai đươc chứng nhận trên những tờ giấy
chứng khoán .Tính hiện thực của khả năng này đòi hỏi người mua phải quan
tâm đến đơn vị phát hành như kết quả kinh doanh trước đó, tình hình chứng
khoán, thành viên hội đồng quản trị và ban giám đốc… Hay nói cách khác
những đặc điểm mà nhà đàu tư cần quan tâm đến khi quyết định có nắm giữ
một chứng khoán hay không dó là tính thanh khoản tính rủi ro và tính sinh
lợi.
Thứ nhất : Tính thanh khoản hay là tính lỏng là quy đổi ra tiền mặt của
chứng khoán đó. Khả năng này phụ thuộc vào thời gian, chi phí cần thiết cho
việc chuyển đổi và rủi ro của việc giảm sút giá trị của tài sản đó do chuyển
đổi. Như vậy chứng khoán có tính khoản cao thì thưòng đi đôi vói lợi nhuận
thấp. Ví dụ : trái phiếu chính phủ luôn có lãi suất thấp hơn so với trái phiếu
công ty.
Thứ hai : Tính rủi ro, một chứng khoán có thể chịu tác động của rủi ro
hệ thống và rủi ro không có hệ thống .Rủi ro có tính hệ thống hay rủi ro thị
trường là loại rủi ro tác động tới hầu hết các tài sản bao gồm rủi ro lạm phát,
rủi ro lãi suất ,rủi ro về tỷ giá hối đoái…Sự biến động giá trái phiếu do
những thay đổi của lãi suất được gọi là rủi ro lãi suất.Loại rủi ro này có hai
đặc tính quan trọng.Một là giá trái phiếu thay đổi ngược chiều với lãi
suất.Lãi suất tăng sẽ khiến giá trái phiếu giảm, lãi suất giảm lại làm tăng giá
trái phiếu.Hai là mức biến động giá trái phiếu sẽ tăng cao khi kỳ hạn của
trái phiếu kéo dài.Rủi ro lạm phát hay rủi ro về sức mua xuất hiện vì sự thay
đổi trong giá trị của đồng tiền mặt của trái phiếu do lạm phát khi đo lường
giá sức mua.Rủi ro về tỷ giá xảy ra đối với những trái phiếu được thanh toán
bằng ngoại tệ. Dòng tiền mặt nội tệ phụ thuộc vào tỷ giá hối đoái tại thời
điểm các khoản lợi tức được thanh toán.Thí dụ giả sử rằng nhà đầu tư mua
trái phiếu thanh toán băng đô la.Khi đô la giảm giá so với đồng tiền VNĐ thì
đồng tiền nhận được ít hơn tại thời điểm thanh toán và ngược lại.
Rủi ro không có tính hệ thống là loại rủi ro chỉ tác động đến một tài sản
hoặc một nhóm nhỏ các tài sản.Loại rủi ro này thường liên quan đến điều
kiện và khả năng hoàn trả nợ của nhà phát hành.Mọi chứng khoán(trừ chứng
khoán chính phủ)đều chịu ảnh hưởng của khả năng này.
Các nhà đầu tư thường quan tâm tới việc xem xét đánh giá các rủi ro
liên quan,trên cơ sở đề ra các quyết định trong việc lựa chọn năm giữ hay
bán chứng khoán.Điều này phản ánh mối quan hệ giữa lợi tức và rủi ro hay
sự cân bằng về lợi tức.Muốn có lợi nhuận phải chấp nhận rủi ro.Lợi nhuận
cao rủi ro ngầm chứa càng lớn.Ngược lại tiềm tàng càng lớn lợi nhuận kỳ
vọng đòi hỏi phải càng cao.
Thứ ba : Tính sinh lợi :Chứng khoán là một loại tài sản mà khi sở hữu
nó nhà đầu tư mong muốn nhận được một thu nhập lớn hơn trong tương
lai.Thu nhập này được đảm bảo bằng lợi tức được phân chia hàng năm và
việc tăng giá chứng khoán trên thị trường.
Người mua thường chấp nhận một mức sinh lời thấp để đổi lấy tính
thanh khoản cao.Tính rủi ro và tính thanh khoản có quan hệ ngược chiều
nhau.Một chứng khoán càng có nhiều rủi ro càng ít tính thanh khoản và do
đó mức lời trả cho chứng khoán đó sẽ cao,đó thường là chứng khoán dài
hạn.Ngược lại các trái phiếu kho bạc ngắn hạn có tính thanh khoản cao,ít rủi
ro hơn và do đó mức sinh lời cũng thấp.
II). Phân loại chứng khoán:
Tuỳ theo cách chọn tiêu chí người tacó thể phân loại chứng khoán ra
thành nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên chúng ta có thể chia chứng khoán
theo ba tiêu chí chủ yếu, đó là theo tính chất của chứng khoán , theo khẳ
năng chuyển nhượng và theo khả năng thu nhập.
Cách phân chia này tạo điều kiện cho người đầu tư nhận biết đễ dàng
các loại chứng khoán đang lưu thông và giúp họ lựa chọn cách thức đâu tư
phù hợp
1 .Phân loại chứng khoán theo tính chất:
Theo tính chất của chứng khoán các loại chứng khoán được phân
thành : Chứng khoán vốn ; Chứng khoán nợ ; Chứng khoán phát sinh.
1.1 Chứng khoán vốn:
Chứng khoán vốn là chứng thư xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu
phần vốn và các quyền hợp pháp khác đối với tổ chức phát hành.
Đại diện cho chứng khoán vốn là cổ phiếu và chứng chỉ quỹ đầu tư.
Cổ phiếu là loại chứng khoán vốn được phát hành dưới dạng chứng
chỉ hoăc bút toán ghi sổ , xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp phápđối với
tài sản hoăc vốn của công ty cổ phần . Cổ phiếu là công cụ tài chínhcó thời
hạn thanh toán là vô thời hạn.
Khi tham gia mua cổ phiếu các nhà đầu tư trở thành cổ đông cuả
công ty cổ phần. Cổ đông có thể tiến hành mua bán chuyển nhượng cổ phiếu
trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật.
1.2 Chứng khoán nợ:
Chứng khoán nợ, điển hình là trái phiếu , tín phiếu là một koại chứng
khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành (người đi vay) phải trả người
đứng tên sở hữu chứng khoán (ngưòi cho vay) một khoản tiền nhất định
gồm cả gốc lẫn lãi trong những khoảng thời gian cụ thể.
Những đặc trưng cơ bản của trái phiếu:
-Mệnh giá và lãi suất cuống phiếu:
+Mệnh giá của một trái phiếu là tiền ghi trên bề mặt trái phiếu, đến
thời điểm thanh toán (đáo hạn) của trái phiếu , tổ chức phát hành phải trả
cho người sở hữu hợp pháp trái phiếu
+Lãi suất cuống phiếu là lãi suất tổ chức phát hành sẽ trả cho
người sở hữu trái phiếu khi đến hạn thanh toán. Lãi suất nhân với mệnh giá
sẽ cho lãi cuống phiếu. Thông thường lãi suất cuống phiếu là lãi suất danh
nghĩa.
- Thời gian đáo hạn: Thời gian đáo hạn của trái phiếu là thời gian
chấm dứt khoản nợ , tổ chức phát hành sẽ thu hồi trái phiếu bằng cách hoàn
trả gốc và lãi cho người sở hữu . Thời gian đáo hạn cua trái phiếu thông
thường là dài hạn. Nếu thời gian đáo hạncủa một trái phiếu càng dài thì mức
độ biến động của trái phiếu càng lớn.
1.3 Chứng khoán phái sinh :
Chứng khoán phái sinh là các công cụ tài chính có nguồn gốc từ
chứng khoán và có quan hệ chặt chẽ vói chứng khoán gốc.
Các chứng khoán phái sinh được hình thành do nhu cầu giao dịch
của người mua và người bán phát triển phụ thuộc vào mức độ phát triển của
thị trường chứng khoán . Có thể phân loại chứng khoán phái sinh thành các
loại như sau :
a)Quyền mua trước:
Quyền mua trước hay còn gọi là đặc quyền mua là một quyền ưu đãi
đươc gắn vói một cổ phiếu đang đươc lưu hành , do công ty phát hành ra cổ
phiếu đó để huy động thêm vốn cổ phần , quyền mua trước cho phép người
sở hữu những những cổ phần đang lưu hành đươc mua nhất định một số cổ
phiếu trong đợt phát hành mới của công ty , tại một mức giá xác dịnh thấp
hơn mức chào ra công chúng trong một thời hạn nhất định.Các quyền này
cũng được chuyển nhượng giữa các cổ đông có quyền thụ hưởng quyền và
các nhà đầu tư khác.Thông thường quyền mua trước có thời hạn ngắn là chủ
yếu (từ 2-4tuần) và việc phát hành quyền được quy định trong điều lệ tổ
chức của công ty.
Mức giá đăng kí trong tất cả các dạng quyền mua trước thấp hơn mức
giá hiện hành cua cổ phiếu vào thời điểm phát hành.
Giá trị của quyền mua trước được xác định:
M= (P-F)/(N+1)
trong đó : P là thị giá cổ phiếu, F :là giá ưu đãi của chứng quyền, N :là
định mức số cổ phiếu cũ để mua một cổ phiếu mới
Trong trường hợp các cổ đông không muốn thực hiện quyền họ có thể
bán chúng trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn.Giá quyền phụ
thuộc vào giá thị trường của cổ phiếu.
b)Chứng khế hay bảo chứng phiếu: là giấy tờ được phát hành cùng với trái
phiếu hay cổ phiếu ưu đãi trong đó xác nhận quyền được mua chứng khoán
theo những điều kiện nhất định của người sở hữu nó.Quyền này được phát
hành trong trường hợp tổ chức lại công ty hoặc khi công ty phát hành nhằm
mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các cổ phiếu hoặc trái
phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi
Gía định trước hay giá đặt mua trên chứng khế cao hơn giá thị trường hiện
hành của cổ phiếu thường và chứng khế có khì hạn dài hơn chứng quyền
một vài năm
Chứng khế thường có tính chất tách rời được, nghĩa là chứng khế có thể
được mua hoặc bán tách rời chứng khoán mà nó phát hành kèm theo. Nếu
giá thị trường của cổ phiếu thường cao hơn gía đặt mua của cổ phiếu thì
chứng khế sẽ có giá trị còn ngược lại chứng khế sẽ không có giá trị
Gía trị chứng khế = Gía trị nội tại + Giá trị thờ gian
Gía trị nội tại =(Gía trị cổ phần – Gía trị hiện thực) x Số cổ phần
được mua
Chứng khế
Khi chứng khế được thực hiện sẽ làm tăng số lượng cổ phần của TCPH
.Điều này sẽ làm giảm giá cổ phần do ảnh hưởng đến lợi nhận tính cho mỗi
cổ phần.Việc xác định giá chứnh khế được tiến hành theo phương pháp áp
dụng đối vơí hợp đồng quyền chọn mua kiểu Mỹ song có tính hiệu ứng “pha
loãng” lợi nhận của quyền.
Gía hợp lý của chứng quyền = Pc x số cổ phần được mua của chứng
quyền
1+q
Trong đó: Pc: là giá trị của hợp đồng quyền chọn mua kiểu Mỹvới giá
thực hiện và thời gian đáo hạn giống như thực tế
q : là tỷ lệ tăng trưởng số cổ phần nếu như tất cả các chứng
khếđều được thực hiện
c)Hợp đồng kì hạn:
là thoả thuận giữa các bên về việc mua hoặc bán những hàng hoá nhất định
trong tương lai .Hợp đồng trao đổi không kì hạn trên thị trường không được
định giá hàng ngày. Giá trong hợp đồng kì hạn là giá giao hàng ngày, tại thời
điểm kí hợp đồng giá chuyển giao được chọn để giá trị của hai bên mua bán
là bằng không điều này có nghĩa là không có chi phí trong hợp đồng mua
bán kì hạn.Hợp đồng kì hạn được nhà đầu tư sử dụng để tiến hành đầu cơ và
bảo hộ.
d) Hợp đồng tương lai: Là hợp đồng mà trong đó một người bán cam kết
giao một số hàng hoá nào đó ( CK) và người mua sẽ trả tiền khi nhận hàng
hoá do (CK), vớ một giá nhất định vào một ngày nhất định trong tương lai
được xác định trước ở hiện tại tại thời điểm kí kết hợp đồng .Để tránh mọi
thiệt hại khi hợp đồng không được tôn trọng, cả hai bên đều được yêu cầu
khí quỹ vào lúc khí hợp đồng
Các hợp đồng tương lai có thể đựoc thực hiện thông qua giao hàng hoặc bù
đắp .Tuy nhiên số các hợp đồng trong tương lai được thực hiện rất ít, còn
hầu hết chúng được bù đắp trước tháng giao hàng .Cho dù có hợp đồng ,
nhưng việc giao hàng không nhất thiết phải được thực hiên. Các thành viên
tham gia thị trường này không phải giao hoặc nhận hàng trừ khi họ có khả
năng hoặc mong muốn được điều đó.Ngưòi chủ mỗi hợp đồng dù là người
mua hay là người bán đều có quyền bù đắp hợp đồng.
e) Quyền chọn : Là một kiểu hợp đồng giữa hai bên mà trong đó một bên
cho bên kia được quyền mua hoặc bán một loại hàng hoá cụ thể hoặc một
lượng chứng khoán nào đó với một giá xác định trong một thời hạn nhất
định. Một hợp đồng quyền chọn bất kì đều bao gồm bốn đặc điểm cơ bản:
loại quyền, tên hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua hoặc bán theo
quyền, ngày đáo hạn, giá thực thi .Có bốn đối tượng tham gia trên thị trường
quyền chọn: ngưòi mua quyền mua, người bán quyền mua ,người mua quyền
bán, ngưòi bán quyền bán.
Người mua được xem là nhà đầu tư có vị thế dài hạn và người bán ở vị thế
ngắn hạn trên hợp đồng. Việc bán hợp đồng quyền chọn được gọi là phát
hành quyền chọn.Trong một hợp đồng quyền chọn , người bán trao quyền
cho người mua để đổi lấy một khoản tiền được gọi là phí quyền chọn hay
còn gọi là giá quyền chọn.Mức giá mà tại đó quyềnchọn được thực hiện gọi
là mức giá thi quyền.
Các bộ phận cấu thành nên giá quyền chọn
-Giá trị nội tại của quyền chọn:là giá trị mà người nắm giữ quyền chọn sẽ
nhậ được bằng cách thực hiện thực hiện quyền được ngay lập tức
-Giá trị thời gian củ quyền chọn là khoản chênh lệch giữa giá của quyền
chọn so với giá nội tại .Thời gian cho đến khi đáo hạn càng dài thì giá tri
thời gian của quyền càng lớn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn: Giá thị trường của chứng
khoán cơ sở,giá thực hiện,thời gian cho đến khi đáo hạn,lãi suất ngắn hạn
trong suốt thời gian tồn tại chứng quyền,lãi suất coupon.
Quyền chọn được nhà đầu tư phòng ngừa rủi ro và sử dụng để đầu cơ.
2) Phân loại chứng khoán theo khả năng chuyển nhượng:
Theo cách này chứng khoán được phân thành chứng khoán ghi danh (ghi
tên) và chứng khoán vô danh (không ghi tên).
2.1)Chứng khoán vô danh(giấy xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền đòi nợ
không ghi tên chủ sở hữu) : Loại chứng khoán này được chuyển nhượng dễ
dàng , không cần những thủ tục xác nhận của công ty hoặc cơ quan công
chứng. Người mua có trách nhiệm chi trả cho người bán theo giá cả đã được
xác định.
2.2) Chứng khoán ghi danh (xác nhận quyền sở hữu hoặc quyền nợ có ghi
tên chủ sở hữu) loại chứng khoán này được phép chuyển nhượng nhưng phải
theo nhưng quy định pháp lý cụ thể. Nếu muốn chuyển nhượng người sở
hữu phải chứng minh mình là người được phép và có quyền chuyển nhượng
(xác nhận chữ kí ,chứng minh thư ,tên trong danh sách cổ đông)
3. Phân loại chứng khoán theo thu nhập
Tuỳ theo từng loại thu nhập , chứng khoán được chia thành các loại sau:
3.1) Chứng khoán có thu nhập cố định
Chứng khoán có thu nhập cố định là loại chứng khoán có quyền yêu cầu thu
nhập cố định không phụ thuộc vào kêt quả hoạt động của nhà phát hành. Nó
có thể là chứng khoán vô danh hoặc chứng khoán đích danh, có thể là tín
phiếu , trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi.
Theo đối tượng phát hành, chứng khoán có thu nhập cố định bao gồm những
loại chủ yếu sau: Trái phiếu nhà nước , Trái phiếu địa phương , Trái phiếu
công nghiệp (trái phiếu công ty) ,Trái phiếu ngân hàng và Tín phiếu quỹ tiết
kiệm ,Tín phiếu kho bạc.
3.2) Chứng khoán có thu nhập biến đổi
Cổ phiếu thường đại diện cho loại chứng khoán có thu nhập biến đổi. Thu
nhập do việc sở hữu cổ phiếu mang lại gọi là cổ tức (hay lợi tức cổ phần ),
nó biến động theo kêt quả kinh doanh của công ty. Hình thức khác của loại
chứng khoán này là phiếu tham gia hay chứng chỉ đầu tư. Loại này khác với
cổ phiếu thông thường ở chỗ, nó không được quyền tham gia giám sát hoạt
động của côngty.Khi phát hành chứng chỉ đầu tư, công ty có thể huy động
vốn vô thời hạn, không chịu rủi ro về chi trả lợi tức cố định như cổ phiếu ưu
đãi hay trái phiếu, song không bị pha loãng quyền kiểm soát của các cổ đông
3.3) Chứng khoán hỗn hợp
Hình thức hỗn hợp của chứng khoán vừa mang tính chất của chứng khoán có
thu nhập cố định, vừa mang tính chất của chứng khoán có thu nhập biến đổi.
Việc phát hành loại cứng khoán này nhằm để thích ứng với nhu cầu đặc biệt
của thị trườngvốn. Chứng khoán hỗn hợp có những loại chủ yếu sau : Trái
phiếu công ty có khả năng chuyển đổi ; Trái phiếu có quyền mua cổ phiếu ;
Trái phiếu có thu nhập bổ sung
III.Phát hành chứng khoán
1. Khái niệm về phát hành chứng khoán
Việc chào bán lần đầu tiên chứng khoán mới gọi là phát hành chứng khoán.
Nếu đợt phát hành dẫn đến việc đưa một loại chứng khoán của một tổ chức
lần đầu tiên ra công chúng thì gọi là phát hành lần đầu ra công chúng. Nếu
việc phát hành đó là việc phát hành bổ sung bởi tổ chức đã có chứng khoán
cùng loại lưu thông trên thị trường thì gọi là đợt phát hành chứng khoán bổ
sung. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng đều được phát hành chứng
khoán mà chỉ những chủ thể phát hành mới có được quyền này.
2. Phương thức phát hành chứng khoán
2.1 Phân loại theo đợt phát hành .
Theo tiêu thức này người ta phân chia phương thức phát hành thành phát
hành chứng khoán lần đầu và phát hành các đợt tiếp theo.
a)Phát hành chứng khoán lần đầu là việc tổ chức phát hành chứng khoán lần
đầu tiên sau khi đã đáp ứng các tiêu chuẩn theo quy định của UBCKNN
b)Phát hành các đợt tiếp theo là hoạt động phát hành nhằm mục đích tăng
thêm vốn của tổ chức phát hành và giao dịnh trên thị trường thứ cấp
2.2) Phân loại theo đối tượng mua chứng khoán
a.Phát hành riêng lẻ (Private Placement)
Phát hành riêng lẻ là việc công ty phát hành chào bán chứng khoán của mình
trong phạm vi một số người nhất định (thông thường là cho các nhà đầu tư
có tổ chức có ý định nắm giữ chứng khoán một cách lâu dài) như công ty
bảo hiểm, quỹ hưu trí... với những điều kiện hạn chế chứ không phát hành
rộng rãi ra công chúng. Các ngân hàng đầu tư cũng có thể tham gia vào việc
phát hành riêng lẻ với tư cách nhà phân phối để hưởng phí phát hành. Đa số
các đợt phát hành trái phiếu đều thực hiện dưới hình thức phát hành riêng lẻ,
việc phát hành cổ phiếu thường - cổ phiếu phổ thông ít khi được thực hiện
dưới hình thức này.
Các doanh nghiệp thường lựa chọn phát hành riêng lẻ bỏi một số nguyên
nhân sau:
- Công ty không đủ tiêu chuẩn để phát hành ra công chúng.
- Số lượng vốn cần huy động nhỏ , mục đích chọn phát hành riêng lẻ để
giảm chi phí
- Công ty phát hành cổ phiếu nhằm mục đính duy trì các mối quan hệ trong
kinh doanh. Ví dụ như phát hành cổ phiếu cho các nhà cung cấp tiêu thụ sản
phẩm , phát hành cho các đối tác…
-Phát hành cho cán bộ công nhân viên chức của công ty.
b.Phát hành chứng khoán ra công chúng
Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng
khoán có thể chuyển nhượng được bán rộng rãi ra công chúng cho một số
lượng lớn người đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà
đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định.
Việc phát hành chứng khoán ra công chúng phải được cơ quan quản lý
Nhà nước về chứng khoán cấp giấy phép hoặc chấp thuận. Sau khi phát hành
trên thị trường sơ cấp chứng khoán sẽ được giao dịch tại sở giao dịch chứng
khoán khi đã đáp ứng được các quy định về niêm yết chứng khoán của
SGDCK. Tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng phải thực hiện một
chế độ báo cáo, công bố thông tin công khai và chịu sự quản lý, giám sát
riêng theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng
khoán
Việc phát hành ra công chúng được phân biệt bằng hai hình thức: phát
hành cổ phiếu ra công chúng và phát hành trái phiếu ra công chúng.
Trường hợp phát