Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh 
doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con 
người vẫn luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó 
do nhiều nguyên nhân, ví dụ như :các rủi ro do môi trường thiên nhiên như 
bão lụt, động đất, rét, hạn, sương muối, dịch bệnh…;các rủi ro do sự tiến bộ 
phát triển khoa học và kỹ thuật như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao 
động.;các rủi ro do môi trường xã hội như hoả hoạn,bạo lực…
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người 
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, sức khoẻ bị 
giảm sút, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh 
nghiệp, cá nhân…làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế –xã hộ nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau 
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra. Trong số đó, 
Bảo hiểm được coi là một biện pháp tích cực nhất trong việc hạn chế rủiro, 
giảm thiểu tổn thất. Bên cạnh các loại hình bảo hiểm như BHXH và BHYT, 
ngày càng có nhiều người dân trên toàn thế giới nói chung, ở Việt Nam nói 
riêng tham gia vào các loại hình bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương 
mại, trong đó đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ(BHNT).
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 2203 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm bảo hiểm An Khang Trường Thọ của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn 
Thực trạng và một số biện 
pháp nhằm đẩy mạnh công 
tác khai thác sản phẩm bảo 
hiểm An Khang Trường Thọ 
của Bảo Việt Nhân Thọ Hà 
Nội 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 1
Lời nói đầu 
 Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh 
doanh hàng ngày dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con 
người vẫn luôn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó 
do nhiều nguyên nhân, ví dụ như :các rủi ro do môi trường thiên nhiên như 
bão lụt, động đất, rét, hạn, sương muối, dịch bệnh…;các rủi ro do sự tiến bộ 
phát triển khoa học và kỹ thuật như tai nạn ôtô, hàng không, tai nạn lao 
động..;các rủi ro do môi trường xã hội như hoả hoạn, bạo lực… 
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người 
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, sức khoẻ bị 
giảm sút, làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh 
nghiệp, cá nhân…làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế – xã hộ nói chung. 
 Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhau 
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả do rủi ro gây ra. Trong số đó, 
Bảo hiểm được coi là một biện pháp tích cực nhất trong việc hạn chế rủi ro, 
giảm thiểu tổn thất. Bên cạnh các loại hình bảo hiểm như BHXH và BHYT, 
ngày càng có nhiều người dân trên toàn thế giới nói chung, ở Việt Nam nói 
riêng tham gia vào các loại hình bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương 
mại, trong đó đặc biệt là bảo hiểm nhân thọ(BHNT). 
 Trên thế giới, loại hình BHNT đã phát triển hàng thế kỷ và cho đến nay đã 
có hàng trăm sản phẩm BHNT ra đời, góp phần phục vụ nhu cầu ngày càng đa 
dạng hoá của khách hàng. ở Việt Nam, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam 
(Bảo Việt ) đã cho ra mắt loại hình bảo hiểm nhân thọ vào tháng 8/1996 và 
cho đến nay đã đạt được những bước tiến lớn: chiếm 54% thị phần, tốc độ 
tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm đạt 64,8% trong năm 2001 và cũng là 
doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới đại lý phủ khắp các tỉnh thành. Các sản 
phẩm của Bảo Việt đã đáp ứng được phần lớn nhu cầu của khách hàng và 
được khách hàng tín nhiệm, tin tưởng tham gia. Từ giữa năm 1999, Chính 
Phủ cho phép mở cửa thị trường BHNT đã xuất hiện thêm các doanh nghiệp 
BHNT lớn, có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, trên thị trường có 5 doanh 
nghiệp BHNT, trong đó chỉ có 1 doanh nghiệp Nhà Nước là Tổng công ty bảo 
hiểm Việt Nam (Bảo Việt), còn lại là 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 2
ngoài . Sự xuất hiện này đã tạo ra sự cạnh tranh toàn diện với tốc độ cao giữa 
các doanh nghiệp BHNT và góp phần thúc đẩy thị trường BHNT của Việt 
Nam ngày càng phát triển. Dưới sức ép cạnh tranh, các công ty BHNT không 
ngừng nỗ lực nâng cao khả năng khai thác sản phẩm BHNT để thu hút khách 
hàng và mở rộng thị phần. Nhìn chung những phương thức cạnh tranh lành 
mạnh của các công ty đều đem lại lợi ích cho khách hàng, sẽ khuyến khích 
ngày càng nhiều người tham gia bảo hiểm. 
 Tuy nhiên, mặc dù các doanh nghiệp BHNT trong những năm qua 
đã có nhiều biện pháp nhằm đẩy mạnh khả năng khai thác sản phẩm của 
mình, nhưng nhìn chung số lượng sản phẩm bán được vẫn chưa cao, đặc biệt 
là các sản phẩm bảo hiểm Nhân thọ trọn đời, số tiền bảo hiểm còn hạn chế, 
hình thức thu phí còn nhiều bất cập...Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài 
“Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh công tác khai thác sản phẩm bảo 
hiểm An Khang Trường Thọ của Bảo Việt Nhân Thọ Hà Nội ” sẽ giúp 
chúng ta có cái nhìn tổng quan về thực trạng khai thác sản phẩm Bảo hiểm 
trọn đời trên thị trường Việt Nam và một số giải pháp để thúc đẩy công tác 
khai thác sản phẩm Bảo hiểm An Khang Trường Thọ của BVNTHN nhằm 
góp phần nâng cao số lượng sản phẩm bảo hiểm An Khang Trường Thọ được 
bán, đưa sản phẩm Bảo hiểm An Khang Trường Thọ trở thành một sản phẩm 
quen thuộc và được ưa thích của người dân Việt Nam. 
 Đề tài này được hoàn thành dựa trên bài giảng của TS Nguyễn Văn Định 
và sự hướng dẫn của TH. S Phạm Thị Định. Em xin chân thành cảm ơn các 
thầy cô. Mặc dù rất cố gắng, tuy nhiên do những hạn chế về mặt lý luận và 
đặc biệt là về thực tiễn nên không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, 
em rất mong nhận được sự tham khảo và góp ý của các thầy, cô và các bạn, 
những ai quan tâm đến vấn đề này để bài viết được hoàn thiện hơn. 
Hà Nội ngày 26/11/2002 
Sinh viên 
Trịnh Thanh Huyền 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 3
Phần 1: Lý luận chung về BHNT 
i>Khái quát về BHNT 
1.Lịch sử hình thành và phát triển BHNT 
ở mỗi quốc gia, trong mọi thời kỳ, con người luôn được coi là lực 
lượng sản xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội. 
Song trong lao động sản xuất cũng như trong cuộc sống hàng ngày, những rủi 
ro :tai nạn, ốm đau, bệnh tật, mất việc làm, già yếu ..v..v vẫn luôn tồn tại và 
tác động đến nhiều mặt của cuộc sống con người. Vì vậy, vấn đề mà bất kỳ xã 
hội nào cũng quan tâm là làm thế nào để khắc phục được những hậu quả của 
rủi ro nhằm đảm bảo cho cuộc sống con người. Thực tế đã có rất nhiều biện 
pháp được áp dụng như: phòng tránh, cứu trợ, tiết kiệm v..v .. nhưng bảo 
hiểm luôn được đánh giá là một trong những biện pháp hữu hiệu. Có rất nhiều 
loại hình bảo hiểm ra đời với mục đích giúp con người khắc phục được những 
rủi ro, giảm thiểu tổn thất và ổn định cuộc sống, đặc biệt là loại hình BHNT. 
BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, 
mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng 
quyền lợi bảo hiểm ) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định 
trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất 
định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách 
khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, 
cuộc sống và tuổi thọ của con người. 
Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi 
khác nhau. Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm. 
Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân 
London là ông william Gybbon tham gia. Phí bảo hiểm ông phải đóng lúc đó 
là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được 
hưởng 400 bảng Anh. 
Năm 1759, công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadenphia (Mỹ). Công 
ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 4
con chiên ở nhà thờ của mình.Năm 1762, công ty BHNT Equitable ở nước 
Anh được thành lập và bán bảo hiểm nhân thọ cho mọi người dân. 
ở châu á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản .Năm 1868 
công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty 
khác là: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay. 
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985 
doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ đôla, năm 1989 đã lên tới 1.210,2 
tỷ và năm 1993 con số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. 
Hiện nay có năm thị trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB 
Đức, Anh và Pháp. 
2.Một số đặc điểm cơ bản của bhnt 
 Dịch vụ BHNT là loại hình bảo hiểm chỉ liên quan đến các sự kiện xảy 
ra trong cuộc sống của con người . Do đó, BHNT có những đặc điểm cơ bản 
sau: 
 Thứ nhất, BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro: Đây là 
một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với bảo hiểm phi 
nhân thọ. Thật vậy, mỗi người mua BHNT sẽ định kỳ nộp một khoản tiền nhỏ 
(gọi là phí bảo hiểm) cho người bảo hiểm, ngược lại người bảo hiểm có trách 
nhiệm trả số tiền lớn (gọi là số tiền bảo hiểm) cho người hưởng quyền lợi bảo 
hiểm như đã thoả thuận từ trước khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền 
bảo hiểm được trả khi người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định và 
được ấn định trong hợp đồng. Hoặc số tiền này được trả cho thân nhân và gia 
đình người được bảo hiểm khi người này không may bị chết sớm ngay cả khi 
họ mới tiết kiệm được một khoản rất nhỏ qua việc đóng phí bảo hiểm. Số tiền 
này giúp những người còn sống trang trải những khoản chi phí cần thiết như 
thuốc men, mai táng, chi phí giáo dục con cái…Chính vì vậy, BHNT vừa 
mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro. Tính chất tiết kiệm ở đây thể hiện 
ngay trong từng cá nhân, từng gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch 
và có kỷ luật. Nội dung tiết kiệm khi mua BHNT khác với hình thức tiết kiệm 
khác ở chỗ, người mua bảo hiểm đảm bảo trả cho người tham gia bảo hiểm 
hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ mới tiết kiệm được 
một khoản tiền nhỏ. Có nghĩa là khi người được bảo hiểm không may gặp rủi 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 5
ro, trong thời hạn bảo hiểm được ấn định, những người thân của họ sẽ nhận 
được những khoản trợ cấp hay số tiền bảo hiểm từ công ty bảo hiểm. Điều đó 
thể hiện rõ tính chất rủi ro trong BHNT. 
 Thứ hai, BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người 
tham gia bảo hiểm: Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp 
ứng được một mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham 
gia bảo hiểm gặp sự cố, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia, 
thì BHNT đã đáp ứng được nhiều mục đích. Mỗi mục đích được thể hiện khá 
rõ trong từng loại hợp đồng. Hợp đồng BHNT đôi khi còn có vai trò như một 
vật thế chấp để vay vốn hoặc BHNT tín dụng thường được bán cho các đối 
tượng đi vay để họ mua xe hơi, đồ dùng gia đình hoặc dùng cho các mục đích 
cá nhân khác…Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau nên loại 
hình bảo hiểm này có thị trường ngày càng rộng và được rất nhiều người quan 
tâm. 
 Thứ ba, các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp: Tính 
đa dạng và phức tạp trong các hợp đồng BHNT thể hiện ở ngay các sản phẩm 
của nó. Mỗi sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng có nhiều loại hợp đồng khác 
nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các hợp đồng 5 năm, 10 năm. Mỗi hợp 
đồng với mỗi thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau vể số tiền bảo hiểm, 
phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia…Ngay cả trong một bản 
hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức tạp. Khác với các bản hợp 
đồng bảo hiêm phi nhân thọ, trong mỗi hợp đồng BHNT có thể có 4 bên 
tham gia (ngưòi bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham giabảo hiểm và 
người được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm). 
 Thứ tư, phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều nhân tố, vì vậy 
quá trình định phí khá phức tạp: Theo tác giả Jean-Claude Harrari “sản phẩm 
BHNT không gì hơn chính là kết quả của một tiến trình đầy đủ để đưa sản 
phẩm đến công chúng”. Trong tiến trình này, người bảo hiểm phải bỏ ra rất 
nhiều chi phí để tạo nên sản phẩm, như chi phí khai thác, chi phí quản lý hợp 
đồng…Nhưng những chi phí đó mới chỉ là một phần để cấu tạo nên giá cả sản 
phẩm BHNT (tính phí BHNT), một phần chủ yếu khác lại phụ thuộc vào: độ 
tuổi của người được bảo hiểm, tuổi thọ bình quân của con người, số tiền bảo 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 6
hiểm, thời hạn tham gia bảo hiểm phương thức thanh toán, lãi suất đầu tư, tỷ 
lệ lạm phát … 
 Thứ năm, BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế – xã 
hội nhất định. ở các nước kinh tế phát triển, BHNT ra đời và phát triển hàng 
trăm năm nay. Ngược lại có một số quốc gia trên thế giới hiện nay vẫn chưa 
triển khai được BHNT, mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và lợi ích của nó. 
Để lý giải vấn đề này, hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, cơ sở chủ yếu để 
BHNT ra đời và phát triển là điều kiện kinh tế xã hội phát triển . 
Những điều kiện về kinh tế như: tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc 
nội (GDP), tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân một đầu người dân, mức 
thu nhập của dân cư, tỷ lệ lạm phát của đồng tiền, tỷ giá hối đoái…. 
Những điểu kiện về xã hội bao gồm: Điều kiện về dân số, tuổi thọ bình quân 
của người dân, trình độ học vấn, tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. 
Ngoài điều kiện kinh tế – xã hội thì môi trường pháp lý cũng ảnh 
hưởng không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp BHNT. Thông 
thường ở các nước, luật kinh doanh bảo hiểm, các văn bản,quy định có tính 
pháp quy phải ra đời trước khi ngành bảo hiểm phát triển . Luật bảo hiểm và 
các văn bản có liên quan sẽ đề cập cụ thể đến các vấn đề như: tài chính, đầu 
tư, hợp đồng, thuế. Đây là những vấn đề mang tính chất sống còn cho hoạt 
động kinh doanh BHNT. Chẳng hạn ở một số nước phát triển như: Anh, Pháp, 
Đức ,..Nhà nước thường tạo điều kiện thuận lợi cho BHNT bằng cách có 
chính sách thuế ưu đãi. Mục đích là tạo ra cho các cá nhân cơ hội để tiết kiệm, 
tự mình lập nên quỹ hưu trí, từ đó cho phép giảm bớt phần trợ cấp từ nhà 
nước. Mặt khác, còn đẩy mạnh được quá trình tập trung vốn trong các công ty 
bảo hiểm để từ đó có vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế. Cũng vì những mục 
đích trên, mà một số nước Châu á như: ấn Độ, Hồng Kông, 
Singapore…không đánh thuế doanh thu đối với các sản phẩm BHNT. Sự ưu 
đãi này là đòn bẩy tích cực để BHNT phát triển . 
3.Vai trò của bhnt trong đời sống kinh tế – xã hội 
Bản chất của Bảo Hiểm nói chung và BHNT nói riêng như chúng ta đã 
biết, không chỉ nhằm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, gây tổn thất về 
người và tài sản của xã hội, mà còn nhằm tạo ra dự phòng tài chính cần và đủ 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 7
để bồi thường tổn thất ấy,góp phần ổn định sản xuất, đời sống kinh tế-xã hội, 
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy BHNT phát triển rất nhanh, doanh thu 
phí bảo hiểm ngày càng tăng. Vai trò của BHNT không chỉ thể hiện trong 
từng gia đình và đối với từng cá nhân trong việc góp phần ổn định cuộc sống, 
giảm bớt khó khăn vể tài chính khi gặp phải rủi ro, mà còn thể hiện rõ trên 
phạm vi toàn xã hội. Trên phạm vi xã hội, BHNTgóp phần thu hút vốn đầu tư 
nước ngoài, huy động vốn trong nước từ những nguồn tiền mặt nhàn rỗi nằm 
trong dân cư, kìm hãm lạm phát…từ đó góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng 
phát triển. Những vai trò to lớn của BHNT được biểu hiện cụ thể dưới những 
hình thức sau: 
 Thứ nhất, đối với người dân, BHNT góp phần ổn định cuộc sống cho 
các cá nhân và gia đình, là chỗ dựa tinh thần cho người được bảo hiểm. Mặc 
dù trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật đã phát triển cao, nhưng rủi ro 
bất ngờ vẫn có thể xảy ra và thực tế đã chứng minh rằng nhiều cá nhân và gia 
đình trở nên khó khăn, túng quẫn khi có một thành viên trong gia đình, đặc 
biệt thành viên đó lại là người trụ cột bị chết hoặc bị thương tật vĩnh viễn. Khi 
đó, gia đình phải chi phí mai táng, chôn cất, chi phí nằm viện, thuốc men, chi 
phí phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị mất đi. Khó khăn 
hơn là một loạt các nghĩa vụ và trách nhiệm mà người chết chưa kịp hoàn 
thành như: trả nợ, phụng dưỡng bố mẹ già, nuôi dạy con cái ăn học…Dù rằng 
hệ thống bảo trợ xẫ hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp khó khăn, nhưng 
cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt, chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài 
chính. Tham gia BHNT sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó. 
 Thứ hai, thông qua dịch vụ BHNT, một dịch vụ có đối tượng tham gia 
rất đông đảo, các nhà bảo hiểm thu được phí để hình thành quỹ bảo hiểm, quỹ 
này được sử dụng chủ yếu vào mục đích bồi thường, chi trả và dự phòng. Khi 
nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và tăng 
trưởng kinh tế. Nguồn vốn này không chỉ có tác dụng đầu tư dài hạn, mà còn 
góp phần thực hành tiết kiệm, chống lạm phát và tạo thêm công ăn việc làm 
cho người lao động. 
Ngày nay ở nhiều nước trên thế giới, những tiến bộ khoa học đã góp 
phần đẩy nhanh quá trình phát triển sản xuất, nâng cao đời sống kinh tế xã 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 8
hội, kéo dài tuổi thọ của dân cư. Tuổi thọ tăng thể hiện đời sống vật chất tinh 
thần cao. Đây là điều đáng mừng, song nó cũng đặt ra cho xã hội, trước hết là 
nguồn ngân sách Nhà nước một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết. Đó 
là việc phải dành một khoản kinh phí ngân sách ngày càng tăng tương ứng với 
mức tăng dân số và tuổi thọ để giải quyết các chế độ đảm bảo xã hội, nhất là 
đối với những người già yếu, không nơi nương tựa. Do vậy, phần vốn ngân 
sách đầu tư cho phát triển ít nhiều nhất định sẽ bị ảnh hưởng. Nhằm khắc 
phục ảnh hưởng ấy, nhiều nước trên thế giới đã dùng biện pháp khác để bổ 
sung vốn đầu tư phát triển. Đó là mở rộng thị trường BHNT, huy động mọi 
tầng lớp dân cư tham gia mua BHNT dài hạn. Đây được coi là biện pháp hỗ 
trợ ngân sách Nhà nước trong việc đảm bảo sinh hoạt bình thường cho những 
người già yếu, những người mất sức bên cạnh các khoản phúc lợi xã hội của 
Nhà nước và là nguồn vốn bổ sung cho ngân sách Nhà nước trong việc đầu tư 
phát triển sản xuất, tạo công ăn việc làm, giữ gìn trật tự và ổn định xã hội. 
Chẳng hạn, ở Mỹ, trong tổng số vốn đầu tư phát triển sản xuất hiện nay thì 
30% là vốn huy động được từ các quỹ BHNT. ở Đức ngày nay, người hưu trí 
còn có khoản thu thêm từ quỹ BHNT bổ sung cho thu nhập tuổi già của mình 
và khoản này chiếm 20% thu nhập hàng tháng của họ. 
Hơn nữa hoạt động đầu tư cũng chi phối chiến lược thiết kế sản phẩm 
và tính phí bảo hiểm của công ty và đóng một vai trò nhất định trong quan hệ 
với khách hàng .Lợi nhuận thu được từ hoạt động đầu tư sẽ quyết định đến 
các sản phẩm bảo hiểm của công ty. Nếu thu nhập của hoạt động đầu tư cao 
sẽ giúp sản phẩm đưa ra hấp dẫn hơn đối với khách hàng về phí, về lãi đầu 
tư…trong khi tỷ lệ lãi đầu tư thấp có thể làm cho các sản phẩm kém cạnh 
tranh và có thể dẫn đến mất khách hàng. 
Thứ ba, BHNT là một công cụ hữu hiệu để huy động những nguồn tiền 
mặt nhàn rỗi ở các tầng lớp dân cư trong xã hội để thực hành tiết kiệm, góp 
phần chống lạm phát. Xét về mặt sản phẩm, tất cả sản phẩm của BHNT đều 
có khả năng chống lại ảnh hưởng của lạm phát vì khi tính phí bảo hiểm, công 
ty bảo hiểm đã áp dụng một tỷ lệ chiết khấu phí (lãi kỹ thuật), phần lãi này sẽ 
bù đắp lại phần trượt giá. Khi tham gia BHNT, khách hàng có thể yên tâm về 
giá trị đồng tiền vì khi tham gia bảo hiểm, số tiền nộp phí bảo hiểm của người 
tham gia bảo hiểm (NTGBH) không phải là tiền “chết” mà là tiền “đẻ” ra tiền. 
Chuyªn ®Ò b¶o hiÓm 
TrÞnh Thanh HuyÒn - B¶o hiÓm 41B 9
Số phí bảo hiểm mà NTGBH đóng được công ty bảo hiểm đem đầu tư và lãi 
đầu tư được trả lại cho NTGBH dưới hình thức chiết khấu phí (tính lãi cho 
phí bảo hiểm đóng ), ngoài ra còn dưói hình thức lãi chia (bảo tức ). Thông 
thường, do thực hiện đa dạng hoá đầu tư nên lãi suất đầu tư của các Cty 
BHNT thường cao hơn lãi suất tiết kiệm tiền gửi Ngân Hàng (và cao hơn tỷ lệ 
lạm phát), như vậy NTGBH được hưởng lãi suất dương từ số phí đóng, tức là 
bảo toàn và tăng được giá trị của khoản tiền đóng phí bảo hiểm. Một điều 
cũng cần lưu ý là, khi tham gia bảo hiểm và đóng phí định kỳ, không phải 
toàn bộ số phí đóng phải chịu ảnh hưởng của lạm phát tương ứng với thời hạn 
bảo hiểm mà từng phần phí đóng sẽ chịu ảnh hưởng trong những thời hạn 
khác nhau. Qua đó, chúng ta thấy vai trò to lớn của BHNT trong việc kìm 
hãm lạm phát. 
Thứ tư, BHNT còn góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội 
như: tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng vốn đầu tư cho việc 
giáo dục con cái, tạo ra một nếp sống đẹp, tiết kiệm có kế hoạch….Trong môi 
trường cạnh tranh mạnh mẽ, các công ty BHNT muốn phát triển sản phẩm và 
mở rộng thị trường của mình thì phải cần đến một hệ thống đại lý có quy mô 
lớn để giúp tuyên truyền, tư vấn và phân phối các sản phẩm BHNT của 
doanh nghiệp đến khách hàng. Nhờ đó mà những người không có việc làm, 
gồm nhiều thành phần :các bạn thanh niên rất trẻ, những người đang tạm nghỉ 
việc, những người chưa tìm được việc làm, những người chưa hài lòng với 
công việc của mình …đến với công ty BHNT đã tìm cho mình được một công 
việc thích hợp với mức lương xứng đáng và họ cũng bị cuốn hút cùng với sự 
phát triển của BHNT. 
Khi