Bảo hiểm xã hội(BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm
và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo
hiểm khác, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất của
nó chi phối.
Ở nước ta, BHXH là một chính sách lớn trong hệ thống an sinh xã hội. BHXH
vừa mang tính kinh tế nhưng cũng mang tính nhân đạo của Nhà nước ta nhằm đảm bảo
cuộc sống cho người lao động trước những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập. Mục
tiêu của Nhà nước là mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi người dân nhưng hiện
nay mục tiêu đó chưa được thực hiện vì nhiều nguyên nhân. Trong công tác BHXH nói
riêng còn có nhiều tồn tại cần được giải quyết.
BHXH cấp huyện là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý BHXH Việt
Nam, là cơ sở đầu tiên để thực hiện công tác BHXH. Thực hiện tốt hoạt động ở BHXH
cấp huyện thì mới đảm bảo cho việc thực hiện của cả hệ thống. BHXH thành phố Vinh
lă cơ quan BHXH cấp huyện trực thuộc sự quản lý dọc của BHXH tỉnh Nghệ An. Trong
thời gian 4 tháng thực tập tại BHXH thành phố Vinh, em đã thu nhận được được một số
kiến thức thực tế về công tác BHXH và em đã tiến hành thực hiện chuyên đề thực tập về
đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động của BHXH thành
phố Vinh” nhằm xem xét và nghiên cứu thực trạng hoạt động của BHXH TP Vinh trong
giai đoạn (1995-2002) để đóng góp một số giải pháp cho BHXH TP Vinh.
Bài viết được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về BHXH
- Chương 2: Thực trạng thực hiện BHXH trên địa bàn thành phố Vinh
- Chương 3: Phương hướng hoạt động và những biện pháp chủ yếu nhằm
thực hiện tốt hoạt động của BHXH TP Vinh.
69 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 1915 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và phương hướng hoạt động và những biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt hoạt động của BHXH TP Vinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận Văn
Thực trạng, phương hướng
hoạt động và những biện
pháp chủ yếu
nhằm thực hiện tốt hoạt
động của BHXH TP Vinh
Chuyªn ®Ò thùc tËp
1
LỜI NÓI ĐẦU
Bảo hiểm xã hội(BHXH) là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm
và đến nay đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. So với các loại hình bảo
hiểm khác, chức năng và tính chất của BHXH có những điểm khác biệt do bản chất của
nó chi phối.
Ở nước ta, BHXH là một chính sách lớn trong hệ thống an sinh xã hội. BHXH
vừa mang tính kinh tế nhưng cũng mang tính nhân đạo của Nhà nước ta nhằm đảm bảo
cuộc sống cho người lao động trước những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập. Mục
tiêu của Nhà nước là mở rộng đối tượng tham gia BHXH cho mọi người dân nhưng hiện
nay mục tiêu đó chưa được thực hiện vì nhiều nguyên nhân. Trong công tác BHXH nói
riêng còn có nhiều tồn tại cần được giải quyết.
BHXH cấp huyện là một bộ phận quan trọng trong hệ thống quản lý BHXH Việt
Nam, là cơ sở đầu tiên để thực hiện công tác BHXH. Thực hiện tốt hoạt động ở BHXH
cấp huyện thì mới đảm bảo cho việc thực hiện của cả hệ thống. BHXH thành phố Vinh
lă cơ quan BHXH cấp huyện trực thuộc sự quản lý dọc của BHXH tỉnh Nghệ An. Trong
thời gian 4 tháng thực tập tại BHXH thành phố Vinh, em đã thu nhận được được một số
kiến thức thực tế về công tác BHXH và em đã tiến hành thực hiện chuyên đề thực tập về
đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm thực hiện tốt hoạt động của BHXH thành
phố Vinh” nhằm xem xét và nghiên cứu thực trạng hoạt động của BHXH TP Vinh trong
giai đoạn (1995-2002) để đóng góp một số giải pháp cho BHXH TP Vinh.
Bài viết được chia làm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về BHXH
- Chương 2: Thực trạng thực hiện BHXH trên địa bàn thành phố Vinh
- Chương 3: Phương hướng hoạt động và những biện pháp chủ yếu nhằm
thực hiện tốt hoạt động của BHXH TP Vinh.
Trong quá trình thực tập, em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, hướng dẫn của
các cán bộ công tác tại cơ quan thực tập, các giáo viên trong bộ môn và đặc biệt là sự
hướng dẫn của thầy giáo Mạc Văn tiến trong việc chọn đề tài và hoàn thành bài viết.
Nhưng do trình độ nhận thức và thời gian có hạn nên bài viết không thể tránh khỏi
những thiếu sót, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô giáo trong bộ
môn giúp bài viết của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chuyªn ®Ò thùc tËp
2
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH
I. BHXH VÀ SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN CỦA BHXH
1. Sự cần thiết
Con người muốn tồn tại và phát triển được trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại
v..v...Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những
sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày
càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn
những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao
động của họ. Nhưng trong thực tế, con người không chỉ lúc nào cũng gặp thuận lợi, có
đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường
hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất
thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau hoặc bị tai
nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động hay khả năng tự
phục vụ bị suy giảm v..v...Khi rơi vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết
trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất
hiện thêm một số nhu cầu mới mhư: cần được khám và điều trị khi ốm đau; tai nạn
thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi dưỡng v..v...Bởi vậy, muốn tồn tại và
ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều
cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong một nội bộ cộng đồng; đi
vay, đi mượn hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v..v... Rõ ràng, những cách đó là
hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến.
Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết bảo
đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định đẻ họ trang trải những nhu cầu
cần thiết khi ốm đau, tai nạn, thai sản...Trong thực tế, nhiều khi các trưòng hợp trên
không xảy ra và người chủ không phải chi trả một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra
dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra trong một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không
muốn.Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc chủ phải
thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diền ra ngày càng rộng lớn và có tác động nhiều
mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước đã phải đứng ra can thiệp và điều
hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng vai trò của Nhà nước, mặt khác
buộc các giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được
tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê .Số tiền
đóng góp của cả chủ và thợ hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia.
Qũy này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ
ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người
lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có
lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo
Chuyªn ®Ò thùc tËp
3
trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và
nhanh chóng. Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được
thế giới quan niệm là BHXH đối với người lao động. Như vậy, BHXH là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải những
biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử
dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình
họ góp phần đảm an toàn xã hội .
2. Bản chất
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã
hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao
động phát triển đến một mức độ nào đó . Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa
dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không
vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước .
- Mối quan hệ giữa cái bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và
diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXHvà bên được BHXH. Bên tham gia
BHXHchỉ có thể là nguười lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động.
Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXHthông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà
nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các
điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH
có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn trái với chủ quan của con người như :
ốm đau, tai nạnlao động, bệnh nghề nghiệp...Hoặc cũng có thể lã trường hợp xảy ra
không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản v..v... Đồng thời những biến cố đó có
thể diễn ra cả trong và ngoài lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến
cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ
trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao
động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được
tổ chức quốc tế ILO cụ thể hoá như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc
biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Chuyªn ®Ò thùc tËp
4
3. Chức năng của Bảo Hiểm Xã Hội
BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội của Đảng và
Nhà nước ta, BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Sự bảo
đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao
động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy
định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc
mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ
thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy
định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả
cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia
BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả người sử dụng lao động.
Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một
số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người
này thường chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo
quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và
chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa người khỏe
mạnh đang lao động với những người ốm yếu phải nghỉ việc v..v...Thực hiện chức năng
này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâưng cao năng
suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động
sản xuất, người lao động được chủ sủ dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu
nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có
chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm
việc. Từ đó, họ rất tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả
kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động
nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao
động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao
động vốn có những mâu thuẫn nội tại khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao
động...Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt,
cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ . Từ đó làm cho
họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho
BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó
khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định,
kinh tế, chính trị xã hội được phát triển và an toàn hơn.
Chuyªn ®Ò thùc tËp
5
4. Tính chất của Bảo Hiểm Xã Hội
BHXH là bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội, vì vậy tính xã hội của nó
thể hiện rất rõ. Quỹ BHXH là một bộ phận của tổng sản phẩm quốc nội được xã hội tổ
chức quản lí, bảo tồn và phân phối lại cho người lao động. Thực chất quỹ BHXH là một
phần trong tổng sản phẩm quốc nội, trong đó người lao động chỉ phải đóng góp một
khoản nhỏ nhưng khi gặp rủi ro được cả cộng đồng trợ giúp để vượt qua khó khăn,
hoạn nạn. Kết quả của sự phân phối lại đó tạo ra được sự bình đẳng hơn về thu nhập
giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội. Chính từ đó góp phần tái sản xuất giản đơn và tái
sản xuất mở rộng sức lao động, tạo thêm được nhiều điều kiện thúc đẩy sản xuất có
hiệu quả, tạo thêm được nhiều công ăn việc làm, tăng thu nhập đồng thời phát triển tốt
hơn các dịch vụ xã hội phục vụ cho con người như y tế, giáo dục, văn hoá... Hoạt động
BHXH không vì mục tiêu lợi nhận mà hoạt động vì mục đích bảo đảm sự phát triển lâu
bền của nền kinh tế, góp phần ổn định và tiến bộ xã hội. BHXH mang tính chất nhân
đạo, nhân văn, dùng tiền đóng góp khi còn trẻ khoẻ để dùng vào lúc tuổi già, đau yếu.
Xét về lâu dài, mọi người lao động trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và
ngược lại, BHXH phải có trách nhiện bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ,
kể cả khi họ đang còn trong độ tuổi lao động.
Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế – xã
hội ngày càng phát triển thì tính dịch vụ và tính xã hội hoá của BHXH cũng ngày càng
cao.
II . NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BHXH
1. Khái niệm về BHXH
BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống
cho người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
2. Đối tượng của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm và đến nay
đã được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Tuy BHXH ra đời sớm như vậy
nhưng một số khái niệm cơ bản của chúng như: đối tượng tham gia, đối tượng được bảo
hiểm, đối tượng thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm đôi khi còn có sự nhầm lẫn và có nhiều
quan điểm chưa thống nhất. Có nhiều lúc còn lẫn lộn giữa đối tượng BHXH với đối
tượng tham gia BHXH.
Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm
hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì
các nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già yếu...Chính vì vậy, đối tượng bảo hiểm xã hội
Chuyªn ®Ò thùc tËp
6
chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc
mất khả năng lao động, mất việc làm .
Người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng
được bảo hiểm và họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH (chiếm phần
lớn trong các trường hợp phát sinh trách nhiệm BHXH).
Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có người sử dụng
lao động và Nhà nước. Sở dĩ người sử dụng lao động tham gia vào BHXH là vì phần họ
thấy được lợi ích thiết thực khi tham gia BHXH, một phần là do sự ép buộc của Nhà
nước thông qua các văn bản quy phạm pháp luật. Đối với Nhà nước thì khác, họ tham
gia BHXH với tư cách là: chủ sở hữu lao động đối với tất cả công nhân viên chức và
những người hưởng lương từ ngân sách. Nhà nước là người bảo hộ cho quỹ BHXH mà
cụ thể là bảo hộ giá trị của quỹ BHXH, bảo hộ cho sự tăng trưởng của quỹ nhằm tạo sự
ổn định cho quỹ và sự phát triển xã hội.
Đối tượng được bảo hiểm xã hội trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn
có người sử dụng lao động. Bởi vì, khi người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao
động phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều này có nghĩa là họ phải bỏ ra một khoản chi phí
cho ngưòi lao động, nhưng thực tế chi phí này nhanh chóng được cơ quan bảo hiểm
hoàn trả lại.
Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là ngưòi lao động trong trường hợp họ
gặp rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí. Nhưng
trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì đối tượng hưởng quyền lợi
bảo hiểm xã hội lại là thân nhân của người lao động như: bố, mẹ, con, vợ ( chồng).
3. Phạm vi bảo hiểm xã hội
Theo công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ của tổ chức lao động quốc tế
ILO phạm vi của BHXH là trợ cấp cho 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp ốm đau
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp thai sản
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng)
Chuyªn ®Ò thùc tËp
7
Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện
kiến nghị đó ở mức độ kác nhau.
ở nước ta theo điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nước ta hiện nay bao gồm 5 chế
độ: chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, chế độ hưu trí và chế độ tử tuất .
4. Quỹ bảo hiểm xã hội
4.1. Khái niệm quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm: người
lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ
BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH.
4.2. Đặc điểm
- Là một quỹ tiền tệ tập trung, giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ
thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tái chính nằm giao thoa giữa ngân sách nhà
nướcvới các tổ chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính
dân cư.
- Phân phối quỹ BHXH vừa mang tính hoàn trả, vừa mang tính không hoàn trả.
Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối với người đã tham gia BHXH
trong suốt quá trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của nhà
nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó
cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế xã hội và điều kiện lịch sử trong từng
thời kì của từng quốc gia. Khi nền kinh tế càng phát triển thì càng có nhiều chế
độBHXHđược thực hiện, và bản thân từng chế độ cùng được áp dụng rộng rãi hơn, nhu
cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâg caovà họ càng có khả
năng tham gia vào nhiều chế độ bảo hiểm xã hội.
- Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng được thể hiện thông qua mục tiêu, mục
đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính dự trữ vì
thông thường, khi người lao động đóng góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ này
chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có đủ thời gian dự bị.
- Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm
bắt buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình
phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng.
4.3. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà
nước.
Chuyªn ®Ò thùc tËp
8
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động góp.
- Người lao động góp.
- Nhà nước góp và hỗ trợ thêm.
- Các nguồn thu khác( như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư
phần nhàn rỗi...)
Qt BH = ĐLĐ + ĐSDLĐ+ ĐNN + TĐT + TTT +TK
Trong đó : Q
T
BH : Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm.
ĐLĐ : Đóng góp của người lao động
ĐSDLĐ : Đóng góp của chủ sở hữu lao động
ĐNN : Đóng góp và hỗ trợ của nhà nước
TĐT : Thu từ hoạt động đầu tư
TTT : Thu từ viện trợ
TK : Thu khác
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người
lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở
quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên.
Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ
tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối
với người lao độngmà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng
tranh chấp, kiến tạo được mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ– thợ. Về phía người lao động,
sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi
ro của chính mình,vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ - thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng
như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ