Luận văn Thực trạng về chất lượng tín dụng tại ngân hàng Đầu tư & Phát triển Thanh Hoá

Hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang đi lên, từng bước bắt kịp dần với nền kinh tế thế giới. Cùng với quá trình đi lên của nền kinh tế thì hệ thống Tài chính cũng ngày càng phát triển và lớn mạnh. Bởi vì hệ thống tài chính chính là mạch máu lưu thông cho nền kinh tế. Các trung gian tài chính như các ngân hàng, các tổ chức tín dụng là đầu mối quan trọng để cung ứng, điều phối vốn giúp cho nền kinh tế vận hành được tốt. Sự lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng đã được ghi nhận qua từng năm và phát triển từng thời kỳ. Trước những năm 90 thì hệ thống Ngân hàng còn mới chỉ là Ngân hàng 1 cấp, làm ăn theo kiểu bao cấp, từ đó dẫn đến không đạt hiệu quả kinh tế. Sau những năm 90, cùng với sự đổi mới của đất nước hệ thống Ngân hàng cũng ngày càng đổi mới, đã thành hệ thống Ngân hàng 2 cấp, làm ăn, kinh doanh theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Ngân hàng Trung ương, của Chính phủ. Chính vì vậy mà hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng cũng như hiệu quả trong nền kinh tế ngày càng tăng dần. Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hóa cũng nằm trong guồng xoáy đó của hệ thống Ngân hàng, và hiện nay Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hóa là một trong những Ngân hàng Thương mại Nhà nước chính giúp cho sự đi lên của nền kinh tế trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

doc86 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng về chất lượng tín dụng tại ngân hàng Đầu tư & Phát triển Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Thực trạng về chất lượng tín dụng tại ngân hàng ĐT&PT Thanh Hoá Mục lục Trang A.Lời nói đầu. Bước vào thời kỳ đội mới được 20 năm, đất nước ta đang từng bước khởi sắc, ngày càng gặt hái được nhiều những thành công to lớn. Có thể nói qúa trình đổi mới đã là bước ngoặt to lớn giúp đất nước đi lên. Trong qúa trình hội nhập kinh tế với thế giới, bước đầu chúng ta còn tụt hậu, thua kém các nước về nhiều mặt. Lý do chính đó là xuất phát điểm của nước ta rất thấp, thêm vào đó là giai đoạn trì trệ, chậm đổi mới làm cho mọi người có cách nghĩ nhìn nhận vấn đề chưa được chính xác. Hiện nay nền kinh tế của chúng ta đang đi lên, từng bước bắt kịp dần với nền kinh tế thế giới. Cùng với quá trình đi lên của nền kinh tế thì hệ thống Tài chính cũng ngày càng phát triển và lớn mạnh. Bởi vì hệ thống tài chính chính là mạch máu lưu thông cho nền kinh tế. Các trung gian tài chính như các ngân hàng, các tổ chức tín dụng là đầu mối quan trọng để cung ứng, điều phối vốn giúp cho nền kinh tế vận hành được tốt. Sự lớn mạnh của hệ thống Ngân hàng đã được ghi nhận qua từng năm và phát triển từng thời kỳ. Trước những năm 90 thì hệ thống Ngân hàng còn mới chỉ là Ngân hàng 1 cấp, làm ăn theo kiểu bao cấp, từ đó dẫn đến không đạt hiệu quả kinh tế. Sau những năm 90, cùng với sự đổi mới của đất nước hệ thống Ngân hàng cũng ngày càng đổi mới, đã thành hệ thống Ngân hàng 2 cấp, làm ăn, kinh doanh theo cơ chế thị trường, có sự điều tiết của Ngân hàng Trung ương, của Chính phủ. Chính vì vậy mà hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng cũng như hiệu quả trong nền kinh tế ngày càng tăng dần. Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hóa cũng nằm trong guồng xoáy đó của hệ thống Ngân hàng, và hiện nay Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hóa là một trong những Ngân hàng Thương mại Nhà nước chính giúp cho sự đi lên của nền kinh tế trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Ngân hàng đã nhiều năm đạt được những thành tích tốt, đã nhiều năm đạt danh hiệu đơn vị lao động giỏi, năm 2003 đạt danh hiệu đơn vị lao động xuất sắc. đề tài này của em nhằm mục tiêu giúp cho Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hoá nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung dần ứng dụng trong hoạt động tín dụng, ngày càng nâng cao hiệu quả của tín dụng, làm cho ngân hàng phát triển tốt hơn. Đề tài gồm 3 chương: Chương 1:Tổng quan về chất lượng tín dụng của NHTM. Chương 2: Thực trạng về chất lượng tín dụng tại ngân hàng ĐT&PT Thanh Hoá. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng ĐT&PT Thanh Hoá. B. nội dung. Chương I. Tổng quan về chất lượng tín dụng của NHTM. 1. Tổng quan về NHTM. 1.1. Khái niệm về NHTM. Ngân hàng thương mại( NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng nhất trong nền kinh tế. Tổng tài sản có của NHTM luôn có khối lượng lớn nhất trong toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mặt khác, khối lượng séc hay tài khoản gửi không kỳ hạn mà nó có thể tạo ra chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng cung tiền tệ M1 của cả nền kinh tế: Có nhiều khái niệm khác nhau về NHTM chẳng hạn: ở Hoa Kỳ: NHTM là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. ở ấn Độ NHTM là cơ sở nhận các khoản ký thác để cho vay hay hoạt động tài trợ và đầu tư. ở Pháp: NHTM là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính. ở Thổ Nhĩ Kỳ : NHTM là một hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn hay tín dụng khác. ở Việt Nam, theo sắc lệnh 018 CT/LDGCQL/SL này 20/10/1969 của chính quền Sài Gòn cũ cho rằng NHTM là một xí nghiệp công hay Tư lập, kể cả chi nhánh hay phân cục Ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính, vói tiền ký thác của tư nhân hay của xí nghiệp hay cơ quan công quyền. Còn theo pháp lênh ngân hàng ngày 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định: NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt dộng chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Qua những khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số điểm đặc trưng của NHTM như sau: - thứ nhất, NHTM là một tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả. -Thứ hai, NHTM là một tổ chức được phếp sử dụng ký thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch vụ tài chính khác. ở đây chúng tín dụng cũng ohân biệt NHTM với các tổ chức tín dụng khác. Vào cuối thập niên 60, điểm đặc thù để phân biệt NHTM với các ngân hàng trung gian khác là: NHTM là đơn vị duy nhất mở tài khoản, tiền gửi không kỳ hạn cho công chúng. Điều này có nghĩa là, người tín dụng phân biệ nó dựa vào các thành phần của tài sản nợ( liabilities). Vào lúc này, tiền gửi không kỳ hạn bị cấm trả lãi, tuy nhiên vì nhu cầu giao dịch thông qua séc vẫn tăng gấp đôi hàng năm, do đó khối lượng Séc phát hành từ các khoản tiền gửi không kỳ hạn tiếp tục là bộ phận mạnh nhất sau tiền mặt pháp định. Từ những năm 80 sau, sau sau khi tiền gửi không kỳ hạn đã được phép trả lãi, các ngân hàng tiết kiệm và các tổ chức tín dụng khác NHTM cũng được quyền và bắt đầu mở tài khoản gửi không kỳ hạn, cho phép công chúng sử dụng séc một cách linh hoạt, đa dạng dưới nhiều hình thức. Lúc này việc phân biệt NHTM với các ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng khác dựa trên tài sản nợ(labilities) không còn phù hợp nữa. Do vậy, các chuyên gia ngân hàng phương tây bắt đầu phân biệt NHTM với các Ngân hàng khác và các tổ chức tín dụng khác dựa trên tài sản có( Assets). Theo tiêu thức này, một NHTM là một trung gian mà tỷ lệ vốn cho vay vào mục đích thương mại và công nghiệp là chiếm đa số. Chức năng của NHTM. 1.2.1.Trung gian thanh toán. Thực hiện chức năng trung gian thanh toán NHTM cung cấp các phương tiện thanh toán cho nèn kinh tế, tiết kiệm chi phí lưu thông và nâng cao khả năng tín dụng. Việc mở tài khoản, cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán cho NHTM trở thành một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. NHTM sẽ thừa lệnh khách hàng để thực hiện toàn bộ các nghiệp vụ ngân quỹ của khách hàng. Việc làm này giúp cho khách hàng cũng như nền kinh tế chu chuyển vốn nhanh, an toà và tiết kiệm. Do đó, tiết kiệm được chi phí lưu thông, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế. Với chức năng trung gian thanh toán cũng cho phép NHTM tạo ra bút tệ để mở rộng quy mô tín dụng đối với nền kinh tế, vừa tiết kiệm được lượng tiền mặt, vừa đáp ứng được những hoạt động thường xuyên của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế phát triển, quy mô thanh toán và khoảng cách giữa khách hàng với nhau ngày càng tăng nhanh chóng. Việc thanh toán trực tiếp giữa các khách hàng với nhau ngày với nhau sẽ không thoả mãn được nhu cầu của nền kinh tế nếu không có NHTM làm chức năng trung gian thanh toán cho chủ thể của nền kinh tế. Việc hệ thống NHTM thực hiện chức năng trung gian thanh toán mang một ý nghĩa rất to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trước hết, hệ thống NHTM sẽ cung cấp cho chủ thể của nền kinh tế nhiều công cụ thanh toán mang tiện ích cao như: thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, thẻ rút tiên, ngân phiếu, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu… Tuỳ theo yêu cầu khách hàng có thể lựa chọn một trong những công cụ thanh toán thích hợp. Nhờ có các phương thức thanh toán được thực hiện bởi các NHTM , các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền đến gặp chủ nợ, gặp người thụ hưởng dù gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức thanh toán nào đó đơn giản, chẳng hạn như một tờ séc, một uỷ nhiệm chi …để giao cho khách hàng hoặc yêu cầu ngân hàng chi trả hộ, thu hộ các khoản tiền theo ý muốn của mình. Thứ hai, là khi sử dụng các phương tiện thanh toán, bản thân chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian, lại an toàn. Hệ thông NHTM lại tích tụ được một nguồn vốn khổng lồ để có thể mở rộng khả năng tín dụng của mình. Ngày nay, có thể nói rằng hoạt động thanh toán của hệ thống NHTM chiếm một vị trí quan trọng trong hoạt động của NHTM nó tạo đều kiện cho nhiều dịch vụ Ngân hàng khácphát triển dễ dàng hơn, đồng thời nó tiết kiệm một khối kượng rất lớn tiền mặt trong lưu thông. Nhìn vào hệ thống thanh toán của NHTM, người ta có thể đánh giá được ngay hoạt động của hệ thống NHTM có hiệu quả hay không. Chu chuyển tiền tệ ngày nay chủ yếu thông qua hệ thống NHTM và do vậy chỉ khi chức năng trung gian thanh toán được hoàn thiện và vai trò của NHTM sẽ được nâng cao hơn với tư cách là người thủ quỹ của xã hội Chức năng tạo tiền. NHTM là một tong những tổ chức trung gian tài chính, làm trung gian cung và cầu vốn tiền tệ, nó huy động tập trung giữa các nơi có nguồn tiền tạm thời thừa, hay tiết kiệm để điều hoà nhu cầu về vốn, với mục đích đem lại lợi ích cho các bên: người gửi tiền, ngân hàng và người vay. Nhưng ngoài việc thu hút tiền gửi và cho vay số tiền gửi đó, NHTM còn tạo tiền khi phát tín dụng.Nghĩa là vốn phát qua tín dụng không nhất thiết dựa trên vàng hay tiền giấy đã gửi vào ngân hàng, tiền vay không trên cơ sở số tiền gửi, mà khoản tín dụng đó do ngân hàng tạo ra tiền để cho vay, gọi là bút tệ , hay bút toán, hay tiền ghi sổ. Khi hết hạn vay người vay trả nợ ngân hàng, tiền vay rút khỏi lưu thông, quay trở lại ngân hàng tiền bị huỷ bỏ. Trong phạm vi một nền kinh tế , hoạt động cho vay và trả nợ diễn ra thường xuyên. hàng ngày có tiền tạo ra và tiền bị huỷ đi. Khối lượng tiền tệ trong lưu thông tăng lên khi luồng tiền tạo ra( phát tín dụng) lớn hơn luồng tiền huỷ đi ( trả nợ ngân hàng). 1.2.3.Chức năng trung gian tài chính. Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian tài chính phi ngân hàng đứng giữa thu nhận tiền gửi của người gửi tiền để cho vay ngươi cần vay tiền hoặc làm môi giớ cho ngưòi đầu tư. Điều này có thể được khái quát hoá qua sơ đồ sau: Cá nhân, doanh nghiệp Ngân hàng thương mại Cá nhân, doanh nghiệp Cho vay đầu tư Nhận tiền gửi uỷ thác đầu tư Thực hiện chức năng này, NHTM thực sự là “ cầu nối” giữa những người có tiền muốn cho vay hoặc muốn gửi ở ngân hàng với những người thiếu vốn cần vay. NHTM góp phần tạo lợi ích công bằng cho cả 3 bên trong mối quan hệ: ngưòi gửi tiền, ngân hàng, và người vay. Đối với những người gửi tiền: họ sinh lợi được vốn tạm thời nhàn rỗi của mình bởi lãi suất tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ hoặc họ dược ngân hàng tạo ra cho họ cái tiện ích như sự an toàn hoặc cung cấp cho họ các phương tiện thanh toán . Đối với người vay: sự thoả mãn được nhu cầu kinh doanh hoặc chi tiêu, thanh toán mà khỏi tốn nhiều công sức, thời gian cho việc tìm kiếm nơi vay tiền tiện lợi, chắc chắn và hợp pháp. Đối với NHTM : sẽ tìm kiếm được lợi nhuận cho bản thân mình dựa vào chênh lệch giữa lãi suát cho vay, lãi suất tiền hoặc hoa hồng môi giớ. Lợi nhuận này chính là cơ sở tồn tại và phát triển của cácNHTM. Thông qua chức năng trung gian tài chính, các NHTM thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, thực hiện các dịch vụ tiện ích cho xã hội. Nếu như không có NHTM việc huy động của cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ chậm đi rất nhiều. Và vì vậy mà người tín dụng cho rằng ngân hàng là một trong 3 phát minh quan trọng của nhân loại lửa và bánh xe. Nhờ có NHTM mà tiền tiết kiệm của các cá nhân, đoàn thể, các tổ chức được huy động vào quá trình vận động của nền kinh tế. Tiền huy động được này thông qua các hoạt động của hệ thống NHTM nó trở thành “ chất bôi trơn” cho bộ máy kinh tế hoạt động. Nó chuyển của cải của xã hội, tài nguyên xã hộivề nơi chưa sử dụng, còn tiềm tàng vào quá trình sử dụng nóphục vụ cho phát triển sản xuất kinh doanh, đời sống ngày càng cao của xã hội. Ngày nay, có thể nói mọi quan hệ kinh tế xã hội của loài người đều thông qua quan hệ tiền tệ và chủ yếu là thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng bên cạnh hoạt động của các tổ chức phi ngân hàng. Các nghiệp vụ của NHTM. 1.3.1. Nghiệp vụ nợ.( Nghiệp vụ tạo lập vốn). Nghiệp vụ tạo nên nguồn vố hoạt động của ngân hàng gọi là nghiệp vụ nợ, vì những khoản mục nguồn vố do nghiệp vụ này tạo nên khi thể hiện trên bảng tổng kết tài sản của NHTM sẽ nằm bên tài sản nợ. Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng. Về sau,khi NHTM đã hình thành ổn định, các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động. Huy động của các nguồn vốn khác nhau(tài sản nợ) trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các NHTM. ở các nước công nghiệp, với sự phát triển nhanh chóng của thi trường tài chính, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn định và thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt động của NHTM trở thành sự cạnh tranh khốc liệt, trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện vấn đề làm thế nào để có đủ vốn đàu tư cho môi trường kinh doanh đầy kịch tính> NHTM phải cạnh tranh với những ngân hàng khác, các tổ chức tài chính khác, với nghiệp vụ thị trường trực tiếp và với bất cứ các tổ chức nào khác muốn thu hút một khối lượng vốn nào đó. Cho đến thời gian gần đây, tài sản nợ của các NHTM trên khắp thế giới vẫn còn tập trung vào năm nhóm phổ biến: 1)vốn pháp định hay vố điều lệ,2) tiền gửi không kỳ hạn, 3) tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) các khoản vay trên thị trường tiền tệ, 5)các khoản vay các ngân hàng khác hay ngân hàng trung ương. Tài sản nợ của NHTM là nguồn vốn chủ yếu trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nói theo ngôn ngữ thi trường thì tài sản nợ diễn tả những khoản nợ mà ngân hàng mắc nợ thị trường, bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào( ký thác) cho nó, hay nó đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương, các ngân hàng hay tổ chức tài chínhkhác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp, nhân dân…Đứng bên tài sản nợ, NHTM là người đi vay, là con nợ, còn các đối tượng kia là người cho vay, là chủ nợ của NHTM. Như vậy, thuật ngữ “Tài sản nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà ngân hàng vay. 1.3.2. Nghiệp vụ có( sử dụng vốn). Những nghiệp vụ sử dụng vốn hình thành nên tài sản của ngân hàng mà khi lên bảng tổng kết tài sản nó nằm bên phía tài sản có. Như vậy, tài sản chủ yếu của ngân hàng là các tài sản tài chính hay còn gọi là các hình thức trái quyền( như cổ phiếu,trái phiếu và các khoản vay), thay vì tài sản thực như nhà cửa, công cụ và nguyên vật liệu. Huy đông được nhàn rỗi, NHTM phải làm thế nào để hiệu quả hoá những nguồn tài sản này. Hỗu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng đeeuf là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó, để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lãi. Từ lãi thu được ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho vốn đã vay thanh toán chi phí cho các hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Nói cách khác, nghiệp vụ của ngân hàng là những nghiệp vụ sử dụng những khoản vốn đã huy động(tập chung vào nghiệp vụ nợ) nhằm mục đích sinh lợi. Cho vay hay đầu tư để sinh lợi từ tiền đã huy đông được sẽ là lẽ sống của NHTM.Cho vay hay đầu tư vào các loại tài sản nào cũng đều là hoạt động kiếm lợi nhuận. chỉ có một ít khác biệt giữa hai khái niệm, do đó đôi khi người tín dụng cũng gọi cả hai hoạt động trênvào một từ là “ đầu tư”. Khi ngân hàng đầu tư tiền vốn vào một thương vụ hoặc cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng vay, nó trở thành là chủ nợ, các đối tượng kia là vay nợ. Vì thế các khoản đầu tư trên biến thành tài sản co( assets) của ngân hàng. Nó càng đầu tư nhiều, càng sinh lãi nhiều từ vốn đã huy động. Nếu không đầu tư được, nó sẽ bị lỗ vì phải trả lãi cho tài sản nợ. Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ bất cứ thành phần nào vay tiền của nó đều trở thành con nợ của ngân hàng. do vậy con nợ của ngân hàng có thể là mọi thành phần nhân dân trong và ngoài nước. Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thi trường nợ ngân hàng hoặc là những khoả mà ngân hàng cho thị trường vay.Nếu chữ “ Nợ” phản ánh rằng đó là tài sản của người khác mà ngân hàng mượn, thỉ chữ “ Có” phản ánh những tài sản của ngân hàng đang được các thành phần khác mượn. Đứng trên góc độ tính chất ngân hàng là chủ nợvà các đối tượng vay tiền của nó là con nợ. Vì mục tiêu của ngân hàng là cho vay đẻ kiếm lời nên tài sản có hay các khoản mà ngân hàng cho thi trưòng vay còn được gọi là đầu tư của ngân hàng( banking investment). Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của NHTM hoặc có thể nói ngược lại, sự đa dạng của tài sản có phản ánh sự đa dạng trong các loại đầu tư của ngân hàng. ở các nước trên thế giới tài sản có của mỗi NHTM thường quy về các nhóm sau đây: 1). Dự trữ tiền mặt, bao gồm: tiền mặt tại kho của ngân hàng; tiền mặt ký gửi tại NHTW. 2). Đầu tư vào chứng khoán ( trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu…) 3). Cho vay 4). Đầu tư vào các loại tài sản ( như bất động sản, cơ sở hạ tầng…) Nghiệp vụ trung gian. Có nhiều loại công cụ ngân hàng. ở đây chỉ đề cập một số thông dụng như tài khoản ngân hàng ngân hàng và các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau. ở đây chỉ giới hạn vào các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt với một số nội dung sau: Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoả này sang tài khoản khác cùng ở một ngân hàng hay ở hai ngân hàng khác nhau thông qua các công cụ như Séc, lệnh chi, thẻ chi trả… Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài khoản. Dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh nghiệp chỉ cần gửi bản lương cho các ngân hàng, sau đó ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài khoản donh nghiệp đó và chi lương cho những người có tên trong danh sách tiền lương. Dịch vụ chuyển tiền từ địa phương này sang địa phương khác. Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân. Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản của khách hàng để thanh toán cáchoá đơn đòi tiền cho các đơn vị dịch vụ gửi đén như: trả tiền điện, nước, thuê nhà ,điẹn thoai…đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái. Quy trình thực hiện dịch vụ khấu trừ tự động: Ngân hàng Đơn vị dịch vụ Khách hàng X Gởi hoá đơn Thanh toán Cung cấp dịch vụ Báo nợ Tài khoản X XXX X1 X2 Chi theo từng hoá đơn 2. Lý luận chung về tín dụng NHTM. 2.1. Khái niệm tín dụng. Hiện nay, xu thế hội nhập và cạnh tranh ngày càng gay gắt đã đặt ra cho mỗi chủ thể kinh tế những cơ hội và thách thức mới. Đòi hỏi mỗi chủ thể kinh tế phảI can sự cải tiến về mọi mặt mỗi bản thân nằhm tạo ra sức cạnh tranh để chiến thắng trong cạnh tranh. Muốn vậy, họ phải có một lượng vố lớn nhiều khi vượt quá khả năng vố tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết những khó khăn này, họ có thể trực tiếp gặp nhau để thương lượng việc vay vốn hoặc thông qua thị trường tài chính song chủ yếu là gián tiếp thông qua trung gian tài chính đặc biệt là NHTM. NHTM là một trung gian tài chính chuyên thực hiện việc đưa người đi vy và người cho vay trong nền kinh tế gặp nhau hay nói một cách đầy đủ hơn NHTM là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trong đó, hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, quyết định chủ yếu đến sự tồn tại và phất triển của ngân hàng. Song lại rất khó có thể định nghĩa rõ ràng về tín dụng mà tuỳ theo góc độ nghiên cứu chúng ta có thể xác định thuật ngữ này. tín dụng ( credit) xuất phát từ chữ la tinh là credo( tin tưởng, tín nhiệm ) song trong thực tế cuộc sống thuật ngữ nàycó thể được hiểu theo nhiều nghĩ