Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng gắn liền với nền kinh tế của các nước trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế. Cũng giống như vai trò của giá cả trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá hối đoái có tác động quan trọng tới những biến đổi của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Nó có thể thay đổi vị thế và lợi ích của các nước trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tỷ giá hối đoái tác động đến sự thăng bằng trong cán cân thanh toán của một quốc gia, sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể kích thích hoặc hạn chế xuất nhập khẩu. Và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ là người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những thay đổi này. Để rõ hơn về ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu thì chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu “Tình hình biến động tỷ giá hối đoái VND/USD giai đoạn 2008-2011 và ảnh hưởng của biến động này đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam”. Qua đó ta có thể thấy được những biến động tỷ giá trong thời gian qua và chính sách của nhà nước và những thuận lợi, khó khăn của các doanh nghiệp khi tỷ giá tăng, giảm.
26 trang |
Chia sẻ: longpd | Lượt xem: 10165 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình biến động tỷ giá hối đoái VND-USD giai đoạn 2008-2011 và ảnh hưởng của biến động này đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Tỷ giá hối đoái có vai trò quan trọng gắn liền với nền kinh tế của các nước trên thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế. Cũng giống như vai trò của giá cả trong nền kinh tế thị trường, tỷ giá hối đoái có tác động quan trọng tới những biến đổi của nền kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế của mỗi quốc gia nói riêng. Nó có thể thay đổi vị thế và lợi ích của các nước trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tỷ giá hối đoái tác động đến sự thăng bằng trong cán cân thanh toán của một quốc gia, sự biến động của tỷ giá hối đoái có thể kích thích hoặc hạn chế xuất nhập khẩu. Và các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ là người chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những thay đổi này. Để rõ hơn về ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu thì chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu “Tình hình biến động tỷ giá hối đoái VND/USD giai đoạn 2008-2011 và ảnh hưởng của biến động này đến các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam”. Qua đó ta có thể thấy được những biến động tỷ giá trong thời gian qua và chính sách của nhà nước và những thuận lợi, khó khăn của các doanh nghiệp khi tỷ giá tăng, giảm.
I.TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
1. Tổng quan về tỷ giá:
1.1. Khái niệm:
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền này được biểu thị thông qua một đồng tiền khác. Nói cách khác, tỷ giá là số đơn vị đồng tiền định giá trên một đồng tiền yết giá. Tại Việt Nam sử dụng phương pháp yết giá trực tiếp, nghĩa là dồng ngoại tệ đóng vai trò là dồng tiền yết giá(số đơn vị =1), còn đồng nội tệ đóng vai trò là đồng tiền định giá.
1.2. Các loại tỷ giá: có rất nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy thuộc vào từng tiêu thức phân loại khác nhau;
a. Căn cứ vào chế độ quản lý ngoại hối, tỷ giá hối đoái bao gồm:
- Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do NHTW của mỗi nước công bố. Tỷ giá hối đoái này được công bố hàng ngày vào đầu giờ làm việc của NHTW. Dựa vào tỷ giá này các NHTM và các TCTD sẽ ấn định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay, có kỳ hạn, hoán đổi.
- Tỷ giá kinh doanh (bao gồm tỷ giá mua, tỷ giá bán): là tỷ giá dung để kinh doanh mua bán do các NHTM haycác TCTD đưa ra. Cơ sở xác định tỷ giá này là tỷ giá chính thức do NHTW công bố xem xét đến các yếu tố liên quan trực tiếp đến kinh doanh như: quan hệ cung cầu ngoại tệ, tỷ suất lợi nhuận, tâm lý của người giao dịch đối với ngoại tệ cần mua hoặc bán. Biên độ giao động hiện nay của tỷ giá kinh doanh so với tỷ giá chính thức là 1%.
- Tỷ giá chợ đen: tỷ giá được hình thành bên ngoài thị trường ngoại tệ chính thức.
b. Căn cứ vào tiêu thức thời điểm thanh toán
- Tỷ giá giao ngay: là tỷ giá mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận ngoại tệ được thực hiện ngay trong ngày hôm đó hoặc một vài ngày sau. Loại tỷ giá này do tổ chức tín dụng yết giá tại thời điểm giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo trong biên độ do NHNN quy định. V iệc thanh toán giữa các bên phải được thực hiện trong vòng 2 ngày làm việc tiếp theo sau ngày cam kết mua bán.
-Tỷ giá giao nhận có kỳ hạn: là tỷ giá giao dịch do TCTD yết giá hoặc do hai bên tham gia giao dịch tự tính toán và thỏa thuận với nhau nhưng phải đảm bảo trong biên độ quy định về tỷ giá kỳ hạn hiện hành của NHNN tại thời điểm ký hợp đồng.
- Tỷ giá mở cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của chuyến giao dịch đầu tiên trong ngày.
- Tỷ giá đóng cửa: tỷ giá mua bán ngoại tệ của hợp đồng ký kết cuối cùng trong ngày.
c. Căn cứ vào tiêu thức giá trị của tỷ giá:
- Tỷ giá danh nghĩa: là tỷ giá được yết và có thể trao đổi giữa hai đồng tiền mà không đề cập đến tương quan sức mua giữa chúng.
- Tỷ giá thực: là tỷ giá đã được điều chỉnh theo sự thay đổi tương quan giá cả của nước có đồng tiền yết giá và giá cả hàng hóa của nước có đồng tiền định giá.
d. Căn cứ vào phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá được phân thành hai loại:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng điện. Đây là tỷ giá cơ sở để xác định các tỷ giá khác.
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá chuyển ngoại hối bằng thư.
e. Căn cứ vào phương tiện thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoái được chia làm 5 loại:
-Tỷ giá séc là tỷ giá mua bán các loại séc ngoại tệ.
-Tỷ giá hối phiếu trả tiền ngay: là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu tra tiền ngay bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá hối phiếu có kỳ hạn : là tỷ giá mua bán các loại hối phiếu có kỳ hạn bằng ngoại tệ.
- Tỷ giá chuyển khoản: là tỷ giá mua bán ngoại hối bằng cách chuyển khoản qua ngân hàng.
- Tỷ giá tiền mặt: là tỷ giá mua bán ngoại hối được thanh toán bằng tiền mặt.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ giá :
a. Tình hình cán cân thanh toán quốc tế: cán cân thanh toán quốc tế của một quốc gia có thể rơi vào một trong ba trạng thái sau: cân bằng, thâm hụt hay thặng dư, ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ giá, Vì vậy, nếu cán cân thanh toán quốc tế dương thì tỷ giá hối đoái có chiều hướng giảm hoặc giữ vững. Ngược lại nếu cán cân thanh toán quốc tế âm thì tỷ giá hối đoái có xu hướng tăng.
b. Mức độ tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế:
Mức độ tăng, giảm của GDP thực tế của một nước so với nước khác, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, sẽ làm tăng hoặc giảm nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, do đó sẽ làm cho nhu cầu ngoại hối để thanh toán hàng nhập khẩu sẽ tăng lên hay giảm xuống từ đó tác động đến cung cầu ngoại tệ và làm cho tỷ gia hối đoái giảm đi hoặc tăng lên.
c. Sự chênh lệch lạm phát của đồng tiền quốc gia:
Khi tỷ lệ lạm phát của một quốc gia tăng lên hay giảm xuống sẽ làm giá trị của đồng tiền nước đó thay đổi dẫn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền nước đó so với nước ngoài bị biến động. Nếu mức lạm phát của nước này cao hơn mức lạm phát của nước khác thì sức mua của nội tệ sẽ giảm so với ngoại tệ. Lạm phát cao càng kéo dài, đồng tiền càng mất giá, sức mua càng giảm nhanh, sức mua của đồng tiền trong nước giảm thì sức mua đối ngoại của nó cũng giảm làm cho tỷ giá hối đoái tăng.
d. Mức chênh lệch giữa lãi suất các nước:
Ở thị trường nao có mức lãi suất ngắn hạn cao hơn thì những luồng vốn ngắn hạn có xu hướng đổ về thị trường đó làm cho cung cầu ngoại tệ tăng lên, cầu về ngoại tệ giảm do đó tỷ giá hối đoái có xu hướng giảm.
e. Các nhân tố có khả năng tác động cung cầu ngoại tệ:
Một số nhân tố khác cũng tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua cung cầu ngoại tệ như: yếu tố chính trị, kinh tế xã hội, thiên tai chiến tranh, hoạt động đầu cơ.
2. Tổng quan về hoạt động xuất nhập khẩu:
2.1. Khái niệm:
Hoạt động xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các nước thông qua hành vi mua bán. Đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về nền kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa riêng biệt của các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Là hoạt động có một vị trí và vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nhập khẩu là hoạt động cho phép bổ sung những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất không hiệu quả và đem lại lợi ích cho các bên tham gia. Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn và là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.2. Đặc điểm:
- Hoạt động xuất nhập khẩu nhằm khai thác lợi thế so sánh cho từng nước, khai thác các nguồn lực cho phát triển, góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân, góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế thế giới và quốc tế hóa. Lợi thế so sánh đó chính là các lợi thế về vị trí địa lý, về lao động, về tài nguyên và sở hữu phát minh sáng chế.
- Nhập khẩu là một hoạt động diễn ra giữa hai hay nhiều quốc gia khác nhau ở trong các điều kiện môi trường và bối cảnh khác nhau. Nhập khẩu tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất kinh tế, đời sống của mỗi người trong mỗi quốc gia.
Nhập khẩu là để tăng cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại cho sản xuất và các hàng hóa tiêu dùng
Mỗi nước đều có một thế mạnh khác nhau, có thể tụ sản xuất ra nhiều loại hàng hóa khác nhau nhưng không thể không có sự trao đổi hàng hóa với các quốc gia khác. Một quốc gia muốn phát triển được thì phải có một nền kinh tế mở, thực hiện giao lưu trao đổi hàng hóa với các nước khác thông qua các hoạt động xuuats nhập khẩu.
3. Ảnh hưởng của tỷ giá đến hoạt động xuất nhập khẩu:
3.1. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động nhập khẩu:
a. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch nhập khẩu:
Khi giá đồng nội tệ tăng hay tỷ giá hối đoái giảm, nhập khẩu sẽ được khuyến khích do giá nhập khẩu trở nên rẻ tương đối, chi phí nhập khẩu giảm, lượng nhập khẩu tăng lên dẫn đến sự tăng lên trong kim ngạch nhập khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng (đồng nội tệ giảm giá) sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu, giá nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn, nhà nhập khẩu phải bỏ nhiều tiền hơn để mua một lương hàng hóa như cũ sẽ dẫn đến việc giảm lợi nhuận các nhà nhập khẩu. Khi lợi nhuận không đủ bù đắp chi phí, cầu nhập khẩu giảm xuống, do đó kim ngạch nhập khẩu giảm .
b. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu nhập khẩu:
Trên phương diện cơ cấu nhập khẩu, sự tăng tỷ giá hối đoái sẽ khiến các nhà quản lý cân nhắc xem phải nhập khẩu những mặt hàng gì. Những mặt hàng như nông sản có thể sẽ bị hạn chế do sản xuất trong nước có thể đáp ứng nhu cầu, các mặt hàng như xăng, dầu, máy móc, thiết bị có thể chiếm tỷ trọng lớn trong danh mục nhập khẩu.
c. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của hàng nhập khẩu:
Khi xét về tính cạnh tranh nhập khẩu, không một quốc gia nào muốn sản phẩm nhập khẩu lại có tính cạnh tranh cao hơn sản phẩm trong nước. Khi tỷ giá tăng lên, sản phẩm nhập khẩu có lợi thế trong khi sản phẩm trong nước lại bất lợi về giá. Khi tỷ giá giảm, cạnh tranh về giá của sản phẩm nhập khẩu không còn, việc tỷ giá giảm tương đương với việc đánh thuế lên hàng nhập khẩu do đó hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn. Nếu tình trạng này kéo dài thì hàng nhập khẩu từ thị trường này có thể được thay thế bằng hàng hóa thị trường khác hoặc sản phẩm trong nước.
3.2. Tác động của biến động tỷ giá lên hoạt động xuất khẩu:
a. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên kim ngạch xuất khẩu:
- Khi tỷ giá hối đoái giảm, giá đồng nội tệ tăng lên, lượng ngoại tệ thu về từ hoạt động xuất khẩu giảm xuống, doanh thu từ hoạt động xuất khẩu tính ra đồng nội tệ bị thu hẹp, xuất khẩu không được khuyến khích dẫn đến sự sụt giảm trong hoạt động xuất khẩu
- Khi tỷ giá hối đoái tăng, giá đồng nội tệ giảm xuống , thuân lợi cho nhà xuất khẩu. Lượng ngoại tệ thu về đổi ra dược nhiều nội tệ hơn, kim ngạch xuất khẩu tăng lên, kích thích các hoạt động xuất khẩu tăng trưởng và phát triển với điều kiện các chi phí đầu vào của sản xuất hàng xuất khẩu khônh tăng lên tương ứng.
b. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên cơ cấu hàng xuất khẩu:
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng nông sản sơ chế dường như nhạy cảm hơn đối với mọi biến động tăng giảm của tỷ giá hối đoái so với các mặt hàng như máy móc, thiết bị toàn bộ, xăng dầu…Vì độ co giãn của các mặt hàng nông sản sơ chế đối vơis giá xuất khẩu hoặc tỷ giá áp dụng là rất cao do đây là các mặt hàng có thể thay thế được. Trong khi đó độ co giãn của các mặt hàng máy móc, thiết bị, các mặt hàng không thể thay thế được như xăng, dầu…là rất thấp. Tỷ giá hối đoái giảm khiến giá hàng xuất khẩu bị đắt tương đối, các mặt hàng dễ bị thay thế là danh mục đầu tiên bị loại ra khỏi danh sách sử dụng của người tiêu dùng ngoại quốc và mất dần trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá hối đoái tăng, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có thể trở nên phong phú hơn do tính cạnh tranh về giá, sự tăng doanh thu xuất khẩu khiến các nhà xuất khẩu đa dạng hóa mặt hàng. Đối với các mặt hàng không thể thay thế như xăng, dầu htif việc tỷ giá tăng hay giảm hầu như không ảnh hưởng nhiều đến cơ cấu cũng như tỷ trọng các mặt hàng này.
c. Ảnh hưởng của biến động tỷ giá lên tính cạnh tranh của xuất khẩu:
Khi có một sự tăng lên của tỷ giá hối đoái sẽ khiến hàng hóa xuất khẩu nước này trở nên cạnh tranh do giá cả rẻ hơn. Ngược lại nếu tỷ giá đồng nội tệ tăng tức tỷ giá hối đoái giảm sẽ khiến giá hàng xuất khẩu trở nên đắt tương đối, tính cạnh tranh về giá giảm đi. Trong cùng một thị trường tiêu thụ nếu chất lượng hàng hóa như nhau thì xu hướng chung người tiêu dúngex sử dụng sản phẩm nào rẻ hơn. Gỉa sử chi phí sản xuất tại các quốc gia quy về cùng một đồng tiền là ngang nhau thì nước nào có mức giảm tỷ giá đồng tiền nước mình so với giá nội tệ của thị trường tiêu thụ lướn hơn thì tính cạnh tranh về giá của nước đó cao hơn và có cơ hội phát triển xuất khẩu nhiều hơn.
II. BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ VND/USD VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008-2011.
1. Tình hình biến động của tỷ giá hối đoái VND/USD:
Việc quản lý tỷ giá hối đoái là yếu tố rất quan trọng vì nó sẽ giúp kiểm soát được lạm phát, ổn định được kinh tế vĩ mô và cán cân thương mại. Và ở Việt Nam cũng đang rất chú trọng vấn đề này, Việt Nam đã có nhiều thay đổi trong cơ chế áp dụng chế độ tỷ giá và chế độ tỷ giá hiện nay (2008-2011) là chế độ neo tỷ giá với biên độ được điều chỉnh. Ở Việt Nam đồng USD gần như là được mặc định là đồng neo tỷ giá và tỷ giá được ngân hàng nhà nước(NHNN) công bố là VND/USD. Căn cứ vào tỷ giá giữa USD và các đồng tiền khác mà các ngân hàng thương mại sẽ xác lập tỷ giá giữa các ngoại tệ đó với VND. Trong thời gian qua tỷ giá VND/USD đã có nhiều biến động và nó ảnh hưởng rất nhiều đến các hoạt động kinh tế cũng như các hoạt động thương mại mà cụ thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Hình1: TỶ GIÁ VND/USD THEO NGÀY VÀ BIÊN ĐỘ GIAI ĐOẠN 2008-2001
Nguồn: NHNN và Vietcombank(2011).
Giai đoạn từ năm 2008-2011 tỷ giá đã có nhiều sự biến động. Đầu năm 2008, nền kinh tế vừa kết thúc giai đoạn suy thoái và khủng hoảng bắt đi vào sự ổn định.
Giai đoạn 2008-2009 đánh dấu sự phản ứng trong chính sách tỷ giá ở Việt Nam. Dựa vào đồ thị và số liệu thống kê ta có thể thấy tỷ giá đầu 2008 của ngân hàng thương mại giảm xuống sàn biên độ và đồng Việt Nam lên giá trong giai đoạn này. Nguyên nhân là do từ cuối năm 2007 sự gia tăng ồ ạt của các nguồn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam làm cho nguồn cung USD tăng mạnh do đó tỷ giá trong giai đoạn giảm xuống hay nói cách khác là đồng Việt Nam tăng giá. Dựa vào hình 1 ta có thể thấy tỷ giá NHTM có nhiều biến động mạnh do lạm phát tăng cao vào giai đoạn nửa đầu năm( tỷ lệ lạm phát năm 2008 rất cao có lúc kên đến gần 20%) đồng thời cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã bắt đầu ảnh hưởng và tác động đến nền kinh tế Việt Nam vào nửa cuối năm 2008. Và cũng bắt đầu từ nửa cuối năm 2008 cùng với sự suy thoái của nền kinh tế thì luồng đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đã bắt đầu giảm. Năm 2008 tỷ giá niêm yết tại các NHTM biến động liên tục, có lúc tỷ giá này thấp hơn cả tỷ giá chính thức trong khi năm 2009 tỷ giá NHTM luôn luôn ở mức trần biên độ mà NHNN công bố. Trước áp lực về quan hệ cung cầu ngoại hối trên thị trường mà tỷ giá trên thị trường tự do tăng rất nhanh. Mặc dù NHNN đã mở rộng biên độ dao động tử +/- 3% lên +/- 5% (biên độ dao động lớn nhất trong vòng 10 năm qua) nhưng các NHTM vẫn giao dịch ở mức trần. Đến 26/11/2009 NHNN chính thức giảm biên độ dao động xuông lại còn +/- 3% tuy nhiên các NHTM vẫn dao dịch ở mức tỷ giá trần.
Hình 2: Tỷ giá giao dịch VND/USD 2008 của các ngân hàng thương mại.
Tỷ giá VND/USD có xu hướng giảm từ đầu năm 2008. Theo công bố của tổng cục thông kê, giá tiêu dùng tháng 1/2008 tăng 2,38% so với cuối năm 2007. Để kiềm chế lạm phát thì NHNN đã điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm, tăng 0,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn tăng lên 7,5%/năm tăng 1,0%/năm,…Ngày 13/2, NHNN thông báo phát hàng tín phiếu NHNN bằng VND vào ngày 17/3 dưới hình thức bắt buộc đối với 41 NHTM với tổng giá trị tín phiếu phát hành 20300 tỷ đồng với kì hạn 364 nngày, lãi suất 7,8%/năm. Đồng thời tỷ giá USD trên thị trường thế giới tăng mạnh. Hệ quả tức thời của các tác động trên là dòng tiền VND bị chặn lại, gây ra hiện tượng khan hiếm tiền mặt, thừa USD giữa các NHTM. Vào thời điểm đó, USD/VND xuống rất thấp, tỷ giá của các NHTM luôn ở mức dưới tỷ giá liên ngân hàng. Người dân không còn giữ USD như trước mà chuyển sang mua vàng hoặc giữ tiền đồng để gửi tiết kiệm hưởng lãi suất cao. Những nhà đầu tư nước ngoài bán USD lấy VND rồi đem gửi tiết kiệm sẽ thu lại được lợi nhuận hơn. Nhà đầu tư càng được lợi cao hơn khi lãi suất ở VN đang tăng chóng mặt còn tỉ giá VND/USD thì giảm mạnh. Kiều bào nước ngoài cũng gửi tiền về cho người thân ở Việt Nam đầu tư mà chủ yếu là gửi tiết kiệm để hưởng lãi suất. Các NHTM một mặt phải chạy đua lãi suất với nhau, diễn ra một cuộc cạnh tranh gây gắt nhằm thu hút lượng VND để đủ tiền mua tín phiếu bắt buộc của NHNN, mặt khác phải cầu cứu NHNN mua bớt ngoại tệ để khai thông dòng chảy cho đồng USD, giải ngân để lấy tiền đồng hỗ trợ thanh khoản khi cung vốn cạn dần. Tỷ giá VND/USD từ tháng 7/2008 có xu hướng tăng nhưng ổn định hơn. Trong tháng 7/2008 chênh lệch giữa ngoại tệ liên ngân hàng và ngoại tệ trên thị trường tự do không quá cách biệt. Nguyên nhân là do ngân hàng nhà nước công bố nguồn dự trữ ngoại tệ nên tâm lý của người dân được cải thiện hơn nên người dân giảm gim giữ ngoại tệ và đầu cơ ngoại tệ nên tỷ giá lúc này khá ổn định. Mặc khác lạm phát lúc này đã được kiểm soát mức tăng lạm phát được kiềm hãm ở mức 1.13% so với tháng trước. Sang các tháng cuối năm biến động nhưng không nhiều, tỷ giá VND/USD trong 8/2008 biến động nhích lên theo từng tuần. Cụ thể tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 16.489 đồng lên 16.493 đồng và tăng đến 16.496 đồng trong 2 tuần cuối tháng 8. Tỷ giá trên thị trường tự do ổn định hơn. Tháng 9/2008 biến động mạnh nhất vào giũa tháng 9 tỷ giá tăng mạnh từ 16.620 lên 16.740 sau đó giảm xuống còn 16.630 VND/USD vào cuối tháng. Nguyên nhân là do cuộc khủng hoảng tài chính ở Mĩ, các tập đoàn tài chính của Mĩ bị phá sản làm cho tỷ giá biến động bất ngờ. Đến tháng 10/2008 tỷ giá tiếp tục được ổn định và đến cuối tháng tỷ giá lại bất ngờ tăng vọt lên mốc 16.800 VND/USD trong khi tỷ giá liên ngân hàng vẫn ổn định. Tuy nhiên sau đó thì tỷ giá này cũng giảm nhẹ. Nguyên nhân là do cuối tháng 9 các nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng khối lượng cổ phiếu và trái phiếu trên 2 sàn giao dịh của Việt Nam mà chủ yếu là để mua USD nên gây sức ép lên tỷ giá. Nguyên nhân nữa là do các ngoại tệ mạnh trên thế giới đều mất giá so với USD nhất là chính phủ Mĩ can thiệp vào thị trường tài chính ngăn chặn cuộc khủng hoảng làm cho USD tăng giá trở lại. Cuộc khủng hoảng toàn cầu ảnh hưởng kinh tế Việt Nam. Rõ ràng nhất là trong cuối năm 2008 nhu cầu hàng xuất khẩu giảm, kim ngạch xuất khẩu giảm liên tục từ tháng 8 chủ yếu là dầu thô. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng giảm đầu tư, lượng khách du lịch vào Việt Nam cũng giảm, lượng kiều hối cũng giảm mạnh đã làm cho nguồn cung USD giảm mạnh ảnh hưởng rất lớn đến tỷ giá. Tuy nhiên chính phủ ta đã có biện pháp hợp lý và đã kiểm soát được tỷ giá không biến động quá mạnh.
Năm 2009: Giá USD tháng 01/2009 so với tháng 12/2008 tăng 1,48%, so với tháng 01/2008 tăng 8,16%. Qua tháng 2 dưới sự tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta chịu ảnh hưởng nhiều tuy nhiên nhà nước ta có nhiều biện pháp để kiềm chế sự ảnh hưởng và cải thiện kinh tế. Nhìn chung từ đầu tháng 1/2009 đến giữa tháng 2/2009, tỷ giá USD/VND không có biến động mạnh - tăng giảm trong khoảng 17.480 đến 17.490 VND/USD - nguyên nhân phần lớn là do có sự can thiệp của nhà nước. Vào những ngày đầu tháng 1/2009 nhu cầu vay vốn bằng ngoại tệ của doanh nghiệp đã giảm hẳn sau khi các NH áp dụng chương trình vay vốn được bù 4% lãi suất. Cơ chế bù lãi suất chỉ áp dụng cho các trường hợp vay vốn bằng VND, không áp dụng cho trường hợp vay vốn bằng USD. Các doanh nghiệp đã tính toán, vay USD vừa phải lo lắng về biến động tỉ giá lại không được bù lãi suất. Từ đó, doanh nghiệp đã dừng vay vốn bằng USD để chuyển sang vay VND, số đã vay đến hạn trả nợ, không vay thêm làm số dư vốn vay USD giảm. Đầu ra của USD ở nước ngoài bị thu hẹp dần. Như vậy, gói kích cầu đã làm cho cầu đồng nội tệ tăng vì các NHTM cần VND để cho vay theo nên lãi suất huy động VND tăng, làm cho giá VND tăng. Đồng