CHƯƠNG 1:CÁC QUAN ĐIỂM LÝ THUYẾT VÀ MỐT SỐNGHIÊN CỨU THỰC 
TIỄN TRÊN THẾGIỚI VỀMỐI QUAN HỆGIỮA TỶGIÁ VÀ CẤN 
CÂN THƯƠNG MẠI 
CHƯƠNG 2:NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỶGIÁ LÊN CÁN 
CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 
CHƯƠNG 3:KHẢNĂNG ỨNG DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH TỶGIÁ NHẰM CẢI 
THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 
CHƯƠNG 4: ĐỀXUẤT MỘT SỐCHÍNH SÁCH TỶGIÁ NHẰM CẢI THIỆN 
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 70 trang
70 trang | 
Chia sẻ: nhungnt | Lượt xem: 5595 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN 
Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại của 
Việt Nam 
 1 
LỜI MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài: 
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, từ năm cuối năm 2006 đến nay, Việt Nam chúng ta 
đang dần gỡ bỏ những rào cản thương mại cho phù hợp với điều kiện gia nhập WTO, 
cơ chế điều hành tỷ giá cũng phải phù hợp với thực trạng của nền kinh tế hội nhập và 
phải đảm bảo được các mục tiêu vĩ mô của Chính phủ. Cơ chế và những chính sách 
điều hành tỷ giá là một nhân tố quan trọng tác động trực tiếp lên cán cân thương mại 
của Việt Nam. Chúng ta phải công nhận rằng cơ chế và chính sách tỷ giá của Việt Nam 
trong thời gian về sau càng linh hoạt và theo sát với tình hình kinh tế trong và ngoài 
nước và đã đạt được nhiều thành công rất đáng khích lệ, đặc biệt là những tác động tích 
cực của tỷ giá lên cán cân thương mại. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đạt được, Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó 
khăn trong cạnh tranh thương mại cũng như luôn phải đối diện với “căn bệnh” nhập 
siêu. Đã có rất nhiều tranh luận đề cập về nguyên nhân của căn bệnh này. Trong đó, có 
đề cập đến nguyên nhân là do chính sách tỷ giá chưa thật sự hợp lý?!. Để hiểu rõ cụ thể 
tác động tỷ giá hối đoái có mối tương quan như thế nào với cán cân thương mại thì 
chúng ta cần phải phân tích thật rõ về nó. Và đó cũng là lý do Tôi lựa chọn đề tài này. 
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
Đề tài nghiên cứu phân tích mối quan hệ chính giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương 
mại của Việt Nam. 
Phản ánh cơ chế, chính sách điều hành tỷ giá Việt Nam trong quá khứ và hiện tại, và 
nêu lên một số gợi ý những chính sách liên quan nhằm cải thiện cán cân thương mại. 
Ngoài ra đề tài còn nêu lên một số ý kiến của chuyên gia, những quan điểm khác nhau 
về cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong bối cảnh kinh tế hiện nay 
 2 
3. Phương pháp nghiên cứu: 
Chủ yếu sử dụng phương pháp liệt kê, mô tả, so sánh, phân tích số liệu thực tiễn, đối 
chiếu,… kết hợp về mặt lý thuyết, các học thuyết kinh tế, kinh nghiệm điều hành; lấy 
mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tiển làm phương pháp chủ đạo để phân tích. 
4. Định hướng phân tích dữ liệu: 
Phân tích định tính: 
- Lấy cơ sở dữ liệu từ những tài liệu chính quy liên quan đến đề tài 
- Từ những văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến đề tài (nghị định, thông 
tư, hướng dẫn, quy chế,…) 
- Từ những nhận định của các chuyên gia kinh tế 
Phân tích định lượng: 
- Phân tích số liệu sơ cấp: chạy số liệu thực tiễn trên những mô hình được xây 
dựng phù hợp với đề tài. 
- Phân tích số liệu thứ cấp (lấy từ các nguồn thống kê, báo đài, tạp chí, các số liệu 
phân tích nội bộ, số liệu phân tích của các Ngân hàng, của các chuyên gia kinh tế,…) 
5. Cấu trúc đề tài: 
Đề tài được chia thành 04 chương: 
CHƯƠNG 1: CÁC QUAN ĐIỂM LÝ THUYẾT VÀ MỐT SỐ NGHIÊN CỨU THỰC 
TIỄN TRÊN THẾ GIỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ CẤN 
CÂN THƯƠNG MẠI 
CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ LÊN CÁN 
CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 
CHƯƠNG 3: KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CÁC CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI 
THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 
CHƯƠNG 4: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ NHẰM CẢI THIỆN 
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI 
 3 
CHƯƠNG 1: CÁC QUAN ĐIỂM LÝ THUYẾT VÀ MỐT SỐ NGHIÊN CỨU THỰC 
TIỄN TRÊN THẾ GIỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỶ GIÁ VÀ CẤN CÂN 
THƯƠNG MẠI: 
1.1. Các quan điểm chủ đạo trong mối quan hệ giữa tỷ giá và cán cân thương mại: 
1.1.1. Các loại tỷ giá được ứng dụng trong phân tích tác động của tỷ giá lên cán 
cân thương mại: 
1.1.1.1. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (Nominal Exchange Rate) 
Tỷ giá danh nghĩa là tỷ giá được sử dụng (niêm yết) hàng ngày trong giao dịch 
trên thị trường ngoại hối, nó chính là giá của một đồng tiền được biểu thị thông qua 
đồng tiền khác mà chưa đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dịch vụ giữa 
chúng. 
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa song phương là giá cả của một đồng tiền so với 
một đồng tiền khác mà chưa đề cập đến chênh lệch lạm phát giữa hai nước. 
Tỷ giá danh nghĩa đa phương (NEER–Nominal Efective Exchange rate): 
NEER không phải là tỷ giá, nó là một chỉ số được tính bằng cách chọn ra một số loại 
ngoại tệ đặc trưng (rổ tiền tệ) và tính tỷ giá trung bình các tỷ giá danh nghĩa của các 
đồng tiền có tham gia vào rổ tiền tệ với tỷ trọng tỷ giá tương ứng. 
Tỷ trọng của tỷ giá song phương có thể lấy tỷ trọng thương mại của nước có đồng nội 
tệ đem tính NEER so các nước có đồng tiền trong rổ được chọn. 
1.1.1.2. Tỷ giá hối đoái thực (Real Exchange Rate) 
Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa hai đồng tiền được điều 
chỉnh bởi chỉ số giá cả giữa hai nước. Tỷ giá thực phản ảnh tương quan sức mua hàng 
hóa và dịch vụ giữa hai quốc gia. 
Tỷ giá thực song phương (RER) là tỷ giá danh nghĩa1 đã được điều chỉnh theo 
mức chênh lệch lạm phát giữa hai nước, nó là chỉ số thể hiện sức mua của đồng nội tệ 
so với đồng ngoại tệ. Vì thế có thể xem tỷ giá thực là thước đo sức cạnh tranh trong 
mậu dịch quốc tế của một quốc gia so với một quốc gia khác. 
 4 
Tỷ giá thực đa phương hay tỷ giá thực hiệu lực (REER): Tỷ giá thực song 
phương chỉ cho chúng ta biết được sự lên giá hay xuống giá của đồng nội tệ so với một 
đồng ngoại tệ. Ngày nay, quan hệ thương mại là đa phương, một nước có quan hệ buôn 
bán với rất nhiều nước trên thế giới. Vấn đề được đặt ra là tại một thời điểm nhất định 
làm sao có thể biết được đồng nội tệ lên giá hay giảm giá so với các đồng tiền của các 
quốc gia khác có quan hệ mậu dịch, hay nói cách khác là làm sao để có thể biết được 
tương quan sức mua hàng hóa của đồng nội tệ với các đồng ngoại tệ để làm cơ sở đánh 
giá tác động của tỷ giá đối với cán cân thương mại của quốc gia? Để có cái nhìn toàn 
diện hơn về vị thế cạnh tranh của hàng hóa trong nước với các đối tác thương mại khác 
người ta dùng tỷ giá thực đa phương (tỷ giá trung bình). Tỷ giá thực đa phương là một 
chỉ số phản ánh mức độ cạnh tranh về giá cả của quốc gia và là cơ sở để đánh giá đồng 
nội tệ bị định giá cao hay thấp. Chỉ số này rất hữu ích cho việc đạt được mục tiêu thích 
hợp trong cơ chế tỷ giá hỗn hợp giữa linh hoạt và cố định. Vì vậy, nó được nhìn nhận 
như là dữ liệu cơ bản cho quá trình thực thi chính sách. Tỷ giá thực đa phương được 
tính toán để định ra giá trị thực của đồng nội tệ so với các ngoại tệ (rổ ngoại tệ). Bằng 
cách điều chỉnh tỷ giá theo chênh lệch lạm phát quốc nội so với lạm phát các đối tác 
tác thương mại, ta sẽ có tỷ giá thực song phương với từng đồng ngoại tệ. Sau đó xác 
định quyền số (mức độ ảnh hưởng đối với tỷ giá thực thông qua tỷ trọng thương mại 
của từng đối tác với quốc gia có đồng tiền tính REER). 
Khi REER lớn hơn 100, đồng nội tệ bị định thấp, ngược lại REER nhỏ hơn 100 
bị định giá cao, REER bằng 100 đồng nội tệ có ngang giá sức mua so với “rổ tiền tệ” 
1.1.2. Các kiểu thương mại được ứng dụng để phân tích: 
1.1.2.1. Thương mại song phương: là hoạt động trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ 
giữa hai bên (phía), hai quốc gia trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận song phương. 
1.1.2.2. Thương mại đa phương: Là hoạt động trao đổi, mua bán hàng hóa, dịch vụ 
nhiều bên (phía), nhiều quốc gia. Việc trao đổi mua bán đa phương phải tuân thủ 
những thỏa thuận chung của tổ chức (hiệp hội) đa phương đó. Hệ thống thương mại đa 
 5 
phương trước hết được quy ước chung. Điều này đối lập với các mối quan hệ thương 
mại song phương, trong đó chỉ có hai nước tự thoả thuận những quy tắc điều chỉnh 
thương mại giữa hai nước đó với nhau. 
Trong WTO, từ "đa phương" có ý nghĩa phân định rõ rệt hơn. Hệ thống thương 
mại đa phương dùng để chỉ hệ thống thương mại do WTO điều chỉnh. Do không phải 
toàn bộ các nước trên thế giới đều là thành viên WTO nên "đa phương" sẽ chỉ phạm vi 
hẹp hơn "toàn cầu". Mặt khác, "đa phương" cũng không đồng nghĩa với những thoả 
thuận của từng nhóm nước tại một khu vực nhất định trên thế giới, ví dụ như EU, 
ASEAN, NAFTA, v.v... Như vậy, "đa phương" là khái niệm đứng giữa "toàn cầu" và 
"khu vực". Cần lưu ý rằng trong quan hệ quốc tế nói chung, "đa phương" có thể chỉ bất 
kỳ mối quan hệ nào có hơn hai nước trở lên tham gia. 
1.1.3. Lý thuyết về các nhân tố tác động lên cán cân thương mại: 
1.1.3.1. Hiệu ứng của phá giá lên cán cân thương mại: Phá giá tiền tệ là làm giảm 
giá trị đồng nội tệ so với các ngoại tệ khác. Phá giá sẽ làm tăng tỷ giá danh nghĩa kéo 
theo tỷ giá thực tăng sẽ kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cải thiện cán cân 
thương mại. Khi tỷ giá tăng (phá giá), giá xuất khẩu rẻ đi khi tính bằng ngoại tệ, giá 
nhập khẩu tính theo đồng nội tệ tăng được gọi là hiệu ứng giá cả. Khi tỷ giá giảm làm 
giá hàng xuất khẩu rẻ hơn đã làm tăng khối lượng xuất khẩu trong khi hạn chế khối 
lượng nhập khẩu. Hiện tượng này gọi là hiệu ứng khối lượng. Cán cân thương mại xấu 
đi hay được cải thiện tùy thuộc vào hiệu ứng giá cả và hiệu ứng số lượng cái nào trội 
hơn. 
Trong ngắn hạn, khi tỷ giá tăng trong lúc giá cả và tiền lương trong nước tương 
đối cứng nhắc sẽ làm giá hàng hóa xuất khẩu rẻ hơn, nhập khẩu trở nên đắt hơn: các 
hợp đồng xuất khẩu đã được ký kết với tỷ giá cũ, các doanh nghiệp trong nước chưa 
huy động đủ nguồn lực để sẳn sàng tiến hành sản xuất nhiều hơn trước nhằm đáp ứng 
nhu cầu xuất khẩu tăng lên, cũng như nhu cầu trong nước tăng lên. Ngoài ra, trong 
ngắn hạn, cầu hàng nhập khẩu không nhanh chóng giảm còn do tâm lý người tiêu dùng. 
 6 
Khi phá giá, giá hàng nhập khẩu tăng lên, tuy nhiên, người tiêu dùng có thể lo ngại về 
chất lượng hàng nội hay trong nước chưa có hàng thay thế xứng đáng hàng nhập làm 
cho cầu hàng nhập khẩu chưa thể giảm ngay. 
Thâm hụt (-) 
Thặng dư (+) 
Cán cân vãng lai 
Thời gian 
Do đó, số lượng hàng xuất khẩu trong ngắn hạn không tăng lên nhanh chóng và 
số lượng hàng nhập cũng không giảm mạnh. Vì vậy, trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có 
tính trội hơn hiệu ứng số lượng làm cho cán cân thương mại xấu đi. Trong dài hạn, giá 
hàng nội địa giảm đã kích thích sản xuất trong nước và người tiêu dùng trong nước 
cũng đủ thời gian tiếp cận và so sánh chất lượng hàng trong nước với hàng nhập. Mặt 
khác, trong dài hạn, doanh nghiệp có thời gian tập hợp đủ các nguồn lực để tăng khối 
lượng sản xuất. Lúc này sản lượng bắt đầu co giãn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn 
hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được cải thiện. 
Đường cong J là một đường mô tả hiện tượng cán cân vãng lai bị xấu đi trong 
ngắn hạn và chỉ cải thiện trong dài hạn. Đường biểu diễn hiện tượng này giống hình 
chữ J. Theo kết quả nghiên cứu của Krugman (1991), người đã tìm ra hiệu ứng đường 
cong J khi phân tích cuộc phá giá đô la Mỹ trong thời gian 1985 – 1987, thì ban đầu 
cán cân vãng lai xấu đi, sau đó khoảng hai năm cán cân vãng lai đã được cải thiện. 
 7 
Hình 1.1: Hiệu ứng đường cong J 
Cán cân vãng lai 
Nguyên nhân xuất hiện đường cong J là do trong ngắn hạn hiệu ứng giá cả có 
tính trội hơn hiệu ứng số lượng nên làm xấu đi cán cân thương mại, ngược lại trong dài 
hạn, hiệu ứng số lượng có tính trội hơn hiệu ứng giá cả làm cán cân thương mại được 
cải thiện. Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại 
trong lý thuyết hiệu ứng đường cong J: 
Tuy nhiên, có nhiều đề tài nghiên cứu thực tiễn đã chứng minh được sự tồn tại 
của đường cong J khi tiến hành phá giá đồng nội tệ như Grassman (1973), Razin 
(1981), Dr. Alireza Rahimiboroujerdi (2004). Bên cạnh đó vẫn có một số nghiên cứu 
chứng minh được không có sự hiện diện của đường cong J trong nghiên cứu của họ 
như: Ahmad and Yang (2004), Ng Yuen – Ling, Har Wai – Mun, Tan Geoi – Mei 
(2008). Thêm một phát hiện thứ ba theo nghiên cứu của Deepak Garg and Sandeep 
Ramesh (2005) chứng minh được sự tồn tại của đường cong M, lập luận trên cơ sở (khi 
tỷ giá tăng, ngay tức thì lượng nhập khẩu sẽ giảm và xuất khẩu sẽ không giảm dẫn đến 
sự thặng dư tức thì cán cân thương mại do nhập khẩu giảm, giai đoạn tiếp theo là hiệu 
Thặng dư (+) 
Thâm hụt (-) 
Thời gian 
 8 
ứng giá cả từ việc phá giá làm cho cán cân thương mại bị thâm hụt, giai đoạn kế tiếp là 
ảnh hưởng của hiệu ứng khối lượng (gia tăng xuất khẩu) làm cán cân thương mại thặng 
dư, đến thời điểm tiếp theo nữa là giai đoạn tự điều tiết của thị trường và hoạt động 
thương mại sẽ trở lại bình thường dẫn đến xét trong dài hạn thì hiệu ứng đường cong J 
là không tồn tại. 
Hình 1.2: Đường cong M ở Ấn Độ trong nghiên cứu của Deepak Garg and Sandeep 
Ramesh (2005) 
Một số nhân tố ảnh hưởng đến thời gian tác động lên cán cân thương mại trong lý 
thuyết hiệu ứng đường cong J là: 
Năng lực sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu: Đối với các nền kinh tế 
đang phát triển (Việt Nam thuộc nhóm nước này), có một số hàng hóa các nền kinh tế 
này không thể sản xuất được hay có sản xuất được đi nữa thì chất lượng không tốt bằng 
hoặc giá cả có thể cao hơn. Vì vậy, mặc dù giá nhập khẩu có đắt hơn, người tiêu dùng 
cũng không thể lựa chọn hàng trong nước. Điều này làm kéo dài thời gian của hiệu ứng 
giá cả. 
 9 
Tỷ trọng hàng hóa đủ tiêu chuẩn xuất khẩu: Đối với các nước phát triển tỷ lệ 
hàng hóa đủ chuẩn tham gia thương mại quốc tế cao nên hiệu ứng giá cả có thời gian 
tác động lên cán cân thương mại thường là thấp. Ngược lại, các nước đang phát triển tỷ 
trọng loại hàng hóa này nhỏ, cho nên một sự phá giá tiền tệ làm cho khối lượng xuất 
khẩu tăng chậm hơn. Điều này làm cho hiệu ứng khối lượng ít có tác động đến cán cân 
thương mại hơn ở các nước đang phát triển. Vì vậy, tác động cải thiện cán cân thương 
mại của phá giá ở các nước phát triển thường mạnh hơn ở các nước đang phát triển. 
Tỷ trọng hàng nhập khẩu trong giá thành hàng sản xuất trong nước: Nếu tỷ 
trọng này cao, giá thành sản xuất của hàng hóa trong nước sẽ tăng lên khi hàng nhập 
khẩu tăng giá. Điều này làm triệt tiêu lợi thế giá rẻ của hàng xuất khẩu khi phá giá. Cho 
nên, phá giá tiền tệ chưa hẳn đã làm tăng khối lượng hàng xuất khẩu. 
Mức độ linh hoạt của tiền lương: Động thái phá giá tiền tệ thường làm chỉ số 
giá hàng tiêu dùng tăng lên. Nếu tiền lương linh hoạt, nó sẽ tăng theo chỉ số giá. Điều 
này làm tăng chi phí sản xuất, từ đó làm cho giá hàng trong nước giảm bớt lợi thế có 
được từ phá giá tiền tệ. 
Tâm lý người tiêu dùng và thương hiệu quốc gia của hàng hóa trong nước: 
Nếu người tiêu dùng trong nước có tâm lý sùng hàng ngoại, thì một sự đắt lên của hàng 
nhập và sự rẻ đi của hàng trong nước có tác động đến hành vi tiêu dùng của họ, họ sẽ 
tiếp tục sử dụng hàng nhập mặc dù giá có đắt hơn. Tiếp theo, mức độ gia tăng số lượng 
hàng xuất khẩu phụ thuộc vào sự tin tưởng và ưa chuộng 
hàng hóa xuất khẩu của người tiêu dùng nước ngoài. 
1.1.3.2. Chi phí thương mại: theo nghiên cứu thực tiễn của Baldwin and 
Krugman(1989), Nunn (2007), Levchenko (2007), Antoine Berthou (2008) và một số 
chuyên gia khác về sự tác động của chi phí thương mại lên hoạt động xuất khẩu đồng 
thời gián tiếp tác động lên cán cân thương mại của quốc gia với một độ trễ nhất định. 
Nghiên cứu nói rằng độ co giãn của xuất khẩu theo tỷ giá sẽ giảm khi: 
 10 
(i) chất lượng kém về thể chế (cơ chế quản lý) của các quốc gia đến làm phát sinh chi 
phí chìm (quan liêu, tham nhũng, chính sách không ổn định, quyền lợi dân chủ, pháp 
luật và trật tự, chính sách đầu tư, hàng rào thuế quan). Sự không ổn định càng cao sẽ 
làm tăng những khoảng chi phí chìm rất lớn 
(ii) khoảng cách xa hơn về mặt địa lý 
(iii) hiệu quả của hải quan là thấp ở cả các nước nhập khẩu và xuất khẩu(chủ yếu là thủ 
tục khai báo hải quan) 
1.1.3.3. Cơ chế điều hành tỷ giá và chính sách bảo hộ của Chính phủ: Trong các 
cuộc nghiên cứu thực nghiệm gần đây của các chuyên gia trên thế giới thì hầu hết đã 
tìm ra được tầm quan trọng cũng như vay trò của tỷ giá đối với hàng hóa xuất nhẩu nói 
riêng và cán cân thương mại nói chung. Các nhà hoạch định kinh tế ngoài việc dùng 
công cụ tỷ giá để cân đối các mục tiêu quốc gia còn có thể dùng nó để làm công cụ hỗ 
trợ cho hoạt động xuất khẩu của hàng hóa trong nước nhằm gia tăng thặng dư cán cân 
thương mại. Việc tạo lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu trong nước đã được rất 
nhiều nước trên thế giới áp dụng như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc,… và đang trở 
thành xu hướng (cũng có thể là lạm dụng) toàn cầu trong giai đoạn hiện nay và các 
chuyên gia trên thế giới cảnh báo rằng có thể nó sẽ gây ra một hình thức chiến tranh 
mới trong lịch sử đó là “chiến tranh tỷ giá”. Viễn cảnh này sẽ dẫn đến nhiều hậu quả 
rất khác nhau, có thể làm giảm uy tín của một quốc gia trên thế giới, một cơ chế phòng 
thủ thương mại (trừng phạt thương mại) sẽ được hình thành cho mỗi quốc gia, làm mất 
dần tính bình đẳng và lành mạnh trong thương mại quốc tế, tệ hơn hết là thế giới sẽ đối 
diện với các cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới. 
Trong một xu thế thương mại toàn cầu thì chính sách bảo hộ thương mại không 
phải là một lựa chọn tối ưu cho một quốc gia, cần phải giảm bớt và gỡ bỏ trong thời 
gian tới. Một chính sách bảo hộ thương mại của quốc gia này thì sẽ được xem là rào 
cản thương mại đối với quốc gia khác và chắc chắn họ sẽ phản ứng lại bằng cách này 
hay cách khác. Chính sách bảo hộ có thể là ưu đãi thuế xuất khẩu, tăng thuế nhập khẩu, 
 11 
trợ cấp xuất khẩu, các chính sách ưu đãi nói chung cho các công ty xuất khẩu nội 
địa,… sẽ làm tăng lợi thế cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trong nước so với các 
nước khác nhưng về lâu dài thì đây không phải là lựa chọn tối ưu mà cần có những 
chính sách khôn ngoan hơn để thay thế. 
1.1.3.4. Hệ số co giãn xuất nhập khẩu và điều kiện Marshall – Lerner: Phương 
pháp hệ số co giãn do 2 tác giả Alfred Marshall và Abba Lerner áp dụng lần đầu và 
được Joan Robinson (1973), Fritz Machlup (1955) mở rộng. Phương pháp này dựa trên 
một số giả thiết: Cung và cầu hàng hóa có hệ số co giãn hoàn hảo, nghĩa là ứng với mỗi 
mức giá nhất định thì nhu cầu hàng hóa xuất nhập khẩu luôn luôn được thỏa mãn. Nội 
dung của phương pháp này chủ yếu phân tích những tác động của phá giá lên cán cân 
vãng lai. 
Hệ số co giãn xuất khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá 
thay đổi 1% 
 dX/X 
ηx = 
dE/E 
Hệ số co giãn nhập khẩu: thể hiện phần trăm thay đổi của xuất khẩu khi tỷ giá 
thay đổi 1% 
 dM/M 
ηm = 
 dE/E 
Điều kiện Marshall-Lerner phát biểu rằng, để cho việc phá giá tiền tệ có tác 
động tích cực tới cán cân thanh toán, thì giá trị tuyệt đối của tổng hai độ co giãn theo 
giá cả của xuất khẩu và độ co giãn theo giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1, (ηx + 
ηm>1). Điều kiện này đặt theo tên của hai học giả kinh tế đã phát hiện ra nó, đó là 
Alfred Marshall và Abba Lerner. 
 12 
Một số nghiên cứu thực nghiệm về độ co giãn như Yue and Hua (2002), 
Bénassy – Quéré and Lahrèche – Révil (2003), Lau et al (2004), Marquez and 
Schindler (2006), Shu and Yip (2006) cho thấy rằng trong dài hạn (từ hai đến ba năm) 
tổng hệ số co giãn xuất khẩu và nhập khẩu lớn hơn 1, tức phá giá có tác động đến xuất 
nhập khẩu. Theo khảo sát thực nghiệm của Goldstein và Kahn (1985) thì tổng hệ số co 
giãn trong dài hạn (dài hơn hai năm) luôn lớn hơn 1, trong khi trong ngắn hạn (dưới 6 
tháng) nó có xu hướng tiến gần đến 1. Nhìn chung, đa số các nhà nghiên cứu đều cho 
rằng hệ số co giãn xuất khẩu và hệ số co giãn nhập khẩu trong ngắn hạn nhỏ hơn trong 
dài hạn. Vì vậy, điều kiện Marshall-Lerner chỉ có thể được duy trì trong dài hạn. Có 
quan điểm cho rằng các nước đang phát triển thường phụ thuộc nhiều vào hàng nhập 
khẩu nên độ co giãn giá của cầu hàng nhập khẩu là nhỏ (tức trị giá nhập khẩu sẽ không 
giảm bao nhiêu khi phá giá nội tệ). Các nước phát triển có thị trường xuất khẩu tương 
đối có tính cạnh tranh nên độ co giãn cầu hàng xuất khẩu có thể lớn hơn (tức giá trị 
xuất khẩu tăng mạnh khi phá giá nội tệ). Điều này hàm ý rằng phá giá ở các nước phát 
triển sẽ có tác động cải thiện cán cân thương mại mạnh hơn so với các nước đang phát 
triển hay nói cách khác, việc phá giá là một giải pháp có thể cải thiện thâm hụt thương 
mại ở quốc gia này như