Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân
dân không những chỉ đòi hỏi sự thay đổi của cơ cấu tổ chức hoạt động của các cơ quan
nhà nước ở trung ương, mà còn cả sự thay đổi tổ chức hoạt động của các cơ quan chính
quyền nhà nước ở địa phương.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà các chủ thể của nó phải có quyền hạn và
trách nhiệm rõ ràng, và trên cơ sở đó các chủ thể phải chủ động và phải chịu trách nhiệm
về mọi hành vi của mình. Trước hết của sự đổi mới này là sự phân định rõ ràng quyền
hạn, trách nhiệm của từng cấp chính quyền địa phương. Nhà nước pháp quyền không chỉ
dừng lại việc phân định giữa 3 quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà còn phải được
phân định giữa trung ương và địa phương, giữa địa phương và địa phương. Về nguyên
tắc, trong nhà nước pháp quyền mọi chủ thể đều có quyền tự nhiên của mình, trong đó có
cả các địa phương tạo nên tính tự trị của địa phương. Trong phạm vi quyền hạn tự nhiên
của mình các địạ phương phải chủ động tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, mà không
cần thiết phải chịu trách trước chính quyền cấp trên. Sự phối kết hợp giữa các cấp chính
quyền cần tuân theo cơ chế phối hợp.
Một số vấn đề cần quan tâm trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương hiện nay:
Sự giản đơn và tập trung bao cấp có thể được thể hiện bằng một loạt những biểu
hiện sau đây:
- Thứ nhất, đất nước Việt Nam được chia thành bốn cấp chính quyền nhà nước (kể
cả trung ương), theo kiểu các hình chóp nhỏ nằm trong các hình chóp lớn. Việc tổ chức
nhà nước địa phương theo kiểu này là rất chắc chắn. Ưu điểm lớn nhất của nó là hạn chế
khả năng để lọt vấn đề phải quản lý, nhưng khuyết điểm lớn nhất của chúng là sự trùng
lặp. Các vấn đề quản lý xã hội ở địa phương đều được pháp luật quy định cho tất cả 3 cấp
của chính quyền địa phương. Cùng một vấn đề cả 4 cấp chính quyền, kể cả chính quyền
trung ương đều phải đứng ra giải quyết, chưa kể đến cấp thôn hiện nay đang được tái
hình thành, và có khả năng giải quyết nhiều công việc như thời xưa. Sự trùng lắp không
những chỉ có tác dụng lãng phí thời gian tiền bạc của ngân sách nhà nước, cũng như sự
đóng góp của nhân dân, mà chính còn là sự chồng chéo, và nhũng nhiễu phiền phức cho
nhân dân.
14 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 628 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật hành chính Việt Nam - Chuyên đề 4: Chính quyền địa phương trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
CHUYÊN ĐỀ 4
CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TRONG VIỆC XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Nguyễn Đăng Dung
2
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân
dân không những chỉ đòi hỏi sự thay đổi của cơ cấu tổ chức hoạt động của các cơ quan
nhà nước ở trung ương, mà còn cả sự thay đổi tổ chức hoạt động của các cơ quan chính
quyền nhà nước ở địa phương.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà các chủ thể của nó phải có quyền hạn và
trách nhiệm rõ ràng, và trên cơ sở đó các chủ thể phải chủ động và phải chịu trách nhiệm
về mọi hành vi của mình. Trước hết của sự đổi mới này là sự phân định rõ ràng quyền
hạn, trách nhiệm của từng cấp chính quyền địa phương. Nhà nước pháp quyền không chỉ
dừng lại việc phân định giữa 3 quyền: Lập pháp, hành pháp và tư pháp, mà còn phải được
phân định giữa trung ương và địa phương, giữa địa phương và địa phương. Về nguyên
tắc, trong nhà nước pháp quyền mọi chủ thể đều có quyền tự nhiên của mình, trong đó có
cả các địa phương tạo nên tính tự trị của địa phương. Trong phạm vi quyền hạn tự nhiên
của mình các địạ phương phải chủ động tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, mà không
cần thiết phải chịu trách trước chính quyền cấp trên. Sự phối kết hợp giữa các cấp chính
quyền cần tuân theo cơ chế phối hợp.
Một số vấn đề cần quan tâm trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương hiện nay:
Sự giản đơn và tập trung bao cấp có thể được thể hiện bằng một loạt những biểu
hiện sau đây:
- Thứ nhất, đất nước Việt Nam được chia thành bốn cấp chính quyền nhà nước (kể
cả trung ương), theo kiểu các hình chóp nhỏ nằm trong các hình chóp lớn. Việc tổ chức
nhà nước địa phương theo kiểu này là rất chắc chắn. Ưu điểm lớn nhất của nó là hạn chế
khả năng để lọt vấn đề phải quản lý, nhưng khuyết điểm lớn nhất của chúng là sự trùng
lặp. Các vấn đề quản lý xã hội ở địa phương đều được pháp luật quy định cho tất cả 3 cấp
của chính quyền địa phương. Cùng một vấn đề cả 4 cấp chính quyền, kể cả chính quyền
trung ương đều phải đứng ra giải quyết, chưa kể đến cấp thôn hiện nay đang được tái
hình thành, và có khả năng giải quyết nhiều công việc như thời xưa. Sự trùng lắp không
những chỉ có tác dụng lãng phí thời gian tiền bạc của ngân sách nhà nước, cũng như sự
đóng góp của nhân dân, mà chính còn là sự chồng chéo, và nhũng nhiễu phiền phức cho
nhân dân.
- Thứ hai, việc tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền không có sự phân biệt
giữa các vùng lãnh thổ khác nhau, giữa nông thôn và thành thị, giữa vùng đồng bằng và
miền núi, giữa vùng có dân tộc kinh với các vùng có nhiều dân tộc thiểu số, tức là không
có sự phân biệt giữa đơn vị hành chính tự nhiên và đơn vị hành chính nhân tạo. Mặc dù
đã có Pháp lệnh của U ỷ ban Thường vụ Quốc hội về việc phân biệt thẩm quyền cho chính
quyền địa phương các cấp, nhưng như trên đã nêu, và nội dung của pháp lênh này đã
được nâng cấp lên thành những quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân, nhưng những nội dung của Luật này vẫn chỉ dừng ở mức độ chung cho mọi
cấp.
Cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cấp chính quyền cấp dưới là bản sao của chính
quyền cấp trên. Cấp trên có cơ cấu tổ chức nào và các hình thức hoạt động nào, thì ở cấp
dưới cũng có những cơ cấu và hình thức đó. M ô hình này được tổ chức theo của Xô viết,
mà đặc trưng của nó là các cấp chính quyền địa phương đều được tổ chức giống nhau. Ở
cấp nào cũng có Hội đồng nhân dân (Xô viết) do dân trực tiếp bầu ra và đều được gọi là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, hoạt động một cách hình thức.
Cách tổ chức này không phân biệt các quận, hạt có nhiệm vụ quản lý nhà nước về
một lĩnh vực nhất định nào đấy xuất phát từ nhu cầu quản lý chung của nhà nước, với các
3
cộng đồng lãnh thổ dân cư được hình thành một cách tự nhiên bền vững, cần phải có
những quyết định phản ánh nhu cầu từ cộng đồng dân cư, khác với các vùng lãnh thổ
khác, mà pháp luật và các quyết định quản lý nhà nước cấp trên không có điều kiện thể
hiện. Quan hệ trung ương và địa phương không rõ ràng, thiếu thủ tục làm việc, nặng về
cơ chế cấp phát, xin cho.
Đầu mối tổ chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân các cấp cũng còn
nhiều nặng nề. Việc kiến thiết tổ chức các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân còn
rập khuôn và tương ứng với các bộ, ngành trung ương. Tức ở trung ương có bộ, ngành
nào thì ở địa phương cũng có các cơ quan chuyên môn đó tương ứng. Số lượng, tên gọi
của các cơ quan chuyên môn của mỗi địa phương cũng dập khuôn giống nhau mặc dù đặc
điểm tính chất, yêu cầu quản lý ở mỗi địa phương có sự khác nhau.
- Thứ ba, việc tổ chức và hoạt động các cấp chính quyền không tạo điều kiện cho
việc chủ động sáng tạo của các cấp chính quyền cấp dưới, nặng về việc cấp dưới xin ý
kiến chỉ đạo, hoặc phê duyệt của cấp trên, theo cơ chế "xin - cho". Các cấp chính
quyền trong hoạt động không dựa vào pháp luật, không coi pháp luật là cơ sở hoạt
động của mình, mà chỉ dựa vào ý kiến chỉ đạo của cấp trên. Việc tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương mang nặng nhiều quy định còn thể hiện ở sự bảo trợ của
chính quyền cấp trên, hạn chế sự chủ động, sáng tạo của chính quyền cấp trên, hạn
chế vai trò của pháp luật, nhiều quyết định của chính quyền đã được thông qua, nhưng
không có hiệu lực thi hành ngay, mà còn phải chờ sự phê chuẩn của cấp trên.
- Thứ tư, việc tổ chức chính quyền địa phương trước đây quá lệ thuộc một cách chủ
quan của tư duy cũ muốn tiến nhanh, tiến mạnh, một cách vội vàng lên chủ nghĩa xã hội,
bằng cách nhập một loạt các đơn vị hành chính lại, để cho chúng có đủ dân số và đất đai
với quy mô lớn, mà không phù hợp với trình độ quản lý của chúng ta. Với cách thức suy
nghĩ như vậy đã làm cho nhiều đơn vị hành chính trở lên bị thua thiệt, kém phát triển.
Do cả một thời kỳ quá dài phải duy trì cơ chế bao cấp tập trung, nên nhìn chung
hiện nay, bên cạnh các địa phương không chủ động giải quyết các công việc có liên quan
đến địa phương là việc chính quyền trung ương luôn luôn can thiệp vào những hoạt động
của chính quyền địa phương. Thậm chí nhiều quy phạm trong hệ thống pháp luật hiện hành
vẫn còn thể hiện rất đậm nét cơ chế này. Vì vậy, một trong những vấn đề nóng bỏng hiện
nay là cần phải phân cấp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương. Chủ trương
chung của phân cấp giữa trung ương và địa phương là: Những việc gì, ở cấp nào có điều
kiện và khả năng thực hiện tốt thì phân giao cho đầy đủ quyền hạn và đảm bảo những điều
kiện cần thiết cho cấp đó giải quyết. Cơ quan được phân giao thẩm quyền phải hoàn toàn
chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Tiếp theo sự phân định, phân quyền giữa trung và địa phương, địa phương với địa
phương là sự phân quyền giữa các cơ quan Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Trên
cơ sở này mà các cơ quan chính quyền địa phương phải chịu trách nhiệm trước các hành
vi hoạt động của mình. Sự phân định và sự chịu trách nhiệm này gần tương tự sự phân
định, sự chịu trách nhiệm giữa các cơ quan lập pháp pháp và hành pháp ở trung ương.
Hãy xem nhận định của một nhà chính trị học Alfred De Grazia để minh chứng cho
nhận định trên:
“Những hội đồng địa phương hoạt động theo những thủ tục lập pháp tương tự như
những thủ tục của nền lập pháp quốc gia. Đành rằng chính sách lưỡng viện rất hiếm
trong những chính quyền địa phương, song hội đồng đô thị hay thị xã duy nhất góp lại
những đề nghị, họp thành uỷ ban để cứu xét những đề nghị đã rồi thảo luận và bỏ thăm
về những đề nghị ấy theo thể thức tương tự như thể thức trong nền lập pháp quốc gia. Vị
Chủ tịch Hội đồng, một khi được nhân dân bầu ra, cũng xử sự trong nhiều phương diện
như một vị Tổng thống hay Thủ tướng, và hợp lực cùng các viên chức hành chính cao
4
cấp khác để hoàn thành những nhiệm vụ như ấn định kế hoạch, tổ chức, tuyển mộ nhân
viên điều khiển, ấn định ngân sách, v.v..., núi tóm lại các chức vụ tương tự về nhiều
phương diện chính như những chức vụ do những viên chức khác thuộc cấp bậc lớn hơn
thực hiện...”1.
CHUYÊN ĐỀ 5.
TÍNH DÂN CHỦ TRON G HOẠT ĐỘ NG BẦU CỬ
Nguyễn Đăng Dung
I. KHÁI NIỆM CHẾ ĐỘ BẦU CỬ
Bầu cử là một định chế trọng tâm của các chính phủ dân chủ kiểu đại diện. Vì
trong một nền dân chủ, quyền lực của nhà nước chỉ được thực thi khi có sự nhất trí của
người dân (người bị quản lý). Cơ chế căn bản để chuyển sự nhất trí đó thành quyền lực
nhà nước là tổ chức bầu cử tự do và công bằng.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề cơ bản nhất của Hiến pháp.
Quyền lực đó phải có các hình thức và biện pháp thực hiện nhất định. Cho đến có hai
hình thức cơ bản để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về mình: Dân chủ trực
tiếp và dân chủ gián tiếp. Dân chủ trực tiếp tức là nhân trực tiếp thực thi bằng cách bỏ
phiếu phúc quyết. Đây là cách thức chưa phổ biến hiện nay. Thứ hai, dân chủ gián tiếp,
tức là nhân dân bỏ phiếu bầu ra những người đại diện, những người đại diện này thay mặt
cho nhân dân, được nhân dân ủy nhiệm giải quyết các công việc của nhà nước. Hình thức
dân chủ gián tiếp này còn đươc gọi là hình thức dân chủ đại diện. Đó là một trong những
hình thức thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Phương pháp bầu cử trở
thành một trong những hình thức thực hiện quyền tự do dân chủ, một trong những biểu
hiện quyền con người trong lĩnh vực chính trị - quyền tự do dân chủ. Cho đến hiện nay ở
các nước dân chủ tư sản cũng như ở các nước dân chủ xã hội chủ nghĩa bầu cử được sử
dụng một cách rộng rãi như là một biện pháp nhân dân trao quyền lực nhà nước cho các
cơ quan nhà nước. Bầu cử trở thành một chế độ bầu cử một hình thức hoạt động quan
trọng của xã hội dân chủ, một phương pháp phổ biến nhất hiện nay để nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Chế độ bầu cử được xác định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội được hình thành
trong quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh sách cử tri, cho đến khi kết
thúc việc xác định được danh sách những người trúng cử. Qua những mối quan hệ xã hội
đó cho phép khái quát được chế độ bầu cử được hình thành qua các cuộc bầu cử của một
đất nước là chế độ bầu cử dân chủ không áp đặt, nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của
mình tìm ra được những người xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân
quản lý và điều hành đất nước.
Thực ra nguyên tắc bầu cử đã xuất hiện từ rất lâu, ngay từ thời chiếm hữu nô lệ.
Ngoài chính thể quân chủ là phổ biến, ngay từ thời kỳ này đã tồn tại chính thể cộng hoà,
với Viện Nguyên lão bao gồm đại diện của những chủ nô quý tộc, đại diện nhân dân
(Commita centuria), và bao gồm cả đại diện của những người cầm vũ khí.(1) Nhưng mãi
cho đến hiện nay kể từ cách mạng tư sản mới trở một trong những biện pháp quan trọng
để nhân dân có thể thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về mình.
Mục tiêu của cách mạng tư sản là phế bỏ chế độ truyên ngôi, thế tập, khẳng định
quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân. Những người cầm quyền nhà nước thực sự
1
Xem, A l fred De Grazia : The E l emen ts of P o liti cal S ci en ce. Co p yrig ht 1959 by Met ron Pr in ceton,
N ew Jercey. p .65 0 .
(1) Xem Nguyễn Gia Phu. Lịch sử Hy lạp và Rôma cổ đại. tr., 19, H.,1991
5
chỉ có thể có được quyền lực nhà nước từ nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước bằng cách bầu ra những người đại diện thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà
nước.
Một trong những quyết định quan trọng nhất của một chế độ dân chủ là phương
pháp bầu cử ra các nhà lãnh đạo và các dân biểu. Nói chung có hai cách lựa chọn cơ bản.
Trong chế độ đại nghị, nhân dân trực tiếp bầu ra hạ nghị viện, đảng đa số tại Hạ nghị viện
(Dân biểu viện) hay liên minh các đảng cầm quyền thành lập ra một chính phủ do một
Thủ tướng đứng đầu. Do vậy chính phủ phải chịu trách nhiệm trước nghị viện (Dân biểu
viện). Chế độ đại nghị trước tiên xuất hiện ở nước Anh, ngày nay được áp dụng ở nhiều
nước khác cả ở Châu Âu cho đến nhiều nước ở vùng biển Caribê, ở Canada và Ấn độ.
Các chính phủ đại nghị đều tự hào rằng với chế độ đa đảng, ngay cả những đảng rất nhỏ
bé cũng có đại diện trong viện lập pháp. Kết quả là những thiểu số cũng có thể tham gia
vào tiến trình chính trị ở cấp cao nhất trong chính phủ. Tính đa dạng này khuyến khích
việc đối thoại và dung hoà quyền lợi khi các đảng phái chính trị cố gắng thành lập ra một
liên minh để tổ chức ra chính quyền. Nếu như liên minh này tan vỡ, hay là đảng bị mất
tín nhiệm, thủ tướng sẽ từ chức, một chính phủ mới sẽ được thành lập hay là một cuộc
tổng tuyển cử mới được tiến hành. Tất cả những sự việc này sẩy ra mà không gây nên
một khủng hoảng chính trị đe doạ đến tận gốc chế độ dân chủ.
Khuyết điểm chính của chế độ đại nghị là mặt trái của tính mềm dẻo và chia xẻ
quyền hành pháp. Đó là sự bất ổn cố của chế độ chính trị. Liên minh đa đảng dễ bị tan vỡ
và sụp đổ ngay khi có những dấu hiệu đầu tiên của khủng hoảng chế độ chính trị, làm cho
nhiều đảng phái chỉ lên nắm chính quyền trong một thời gian ngắn. Chính phủ có thể bị
các đảng phái nhỏ bé hành hạ, bằng cách đe doạ rút ra khỏi chính phủ liên hiệp. Họ có thể
đòi hỏi phải có nhượng bộ một số yêu sách đặc biệt trong chính sách của chính phủ.
Ngược lại, trong chế độ này với một đa số tuyệt đối nắm nghị viện, Thủ tướng và đảng
cầm quyền có thể đem thi hành một chính sách quá xa vời, ngay cả ở mức có thể phản
dân chủ, mà không có một cơ chế hữu hiệu nào có thể ngăn cản được, đưa tới một chế độ
chuyến chế của đa số. Với cách thức tổ chức này, nhân dân gián tiếp bầu ra chính phủ,
trung tâm của quyền lực nhà nước.
Phương pháp thứ hai, nhân dân bằng một cách trực tiếp hoặc có thể gián tiếp bầu ra
một vị Nguyên thủ quốc gia, không những là nguyên thủ quốc gia - đứng đầu nhà nước,
mà còn là người trực tiếp lãnh đạo hành pháp. Nếu như ở chế độ đại nghị, chính phủ và
người đứng đầu chính phủ do lập pháp thành lập và phải chịu trách nhiệm trước lập pháp,
thì ở mô hình chính thể tổng thống cộng hoà, chính phủ và người đứng đầu chính phủ
không phải chịu trách nhiệm trước lập pháp, mà phải chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Với phương pháp bầu này, tổng thống trực tiếp chịu trách nhiệm trước nhân dân. Nhân
dân trực tiếp hạn chế quyền lực của Tổng thống qua các cuộc đầu phiếu phổ thông.
Tổng thống do nhân dân bầu lên trong một nhiệm kỳ nhất định có uy quyền trực
tiếp từ dân, có thể không cần đến thế đứng của đảng mình trong Quốc hội. Nếu đa số của
Quốc hội cùng đảng với Tổng thống, thì đó là một sự thuận lợi. Ngược lại không cùng
đảng với đa số của Quốc hội, tổng thống sẽ có thể trở nên khó khăn hơn trong việc điều
hành của mình. Bằng cách phân quyền cứng rắn, Quốc hội cũng do dân bầu, Tổng thống -
người đứng đầu hành pháp cũng do dân bầu, cùng chịu trách nhiệm trước nhân dân, mỗi
ngành đều có thể thể nại ra rằng cùng có được sự uỷ thác quyền lực từ cử tri, và mỗi
ngành đều có quyền kiểm soát và cân bằng quyền lực đối với cành kia. Những ai sợ rằng
hành pháp có tiềm năng trở nên chuyên chế sẽ có khuynh hướng nhấn mạnh vai trò của
Quốc hội, và ngược lại những người lo ngại sự lạm dụng quyền của đa số lập pháp, thì sẽ
6
luôn luôn khẳng định uy quyền của Tổng thống. Chế độ tự nhiên có sự cân bằng nhất
định các cành quyền lực của nhà nước.
Yếu điểm của chế độ tổng thống là chỗ rất dễ rơi vào tiềm năng của một chính
quyền bế tắc. Tổng thống có thể không hội đủ số phiếu để đem thi hành những chính sách
cứng rắn của mình, nhưng bằng cách phủ quyết (veto) có thể ngăn cản không cho Quốc
hội thế chính sách của mình bằng các chương trình hành động do Quốc hội đề xuất. Tổng
thống mặc dù do dân bầu ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, nhưng có thể không có
quyền lực bằng thủ tướng trong chế độ đại nghị. Tổng thống luôn luôn phải đấu tranh với
quốc hội – lập pháp, vì hai cuộc bầu cử tổng thống và quốc hội là riêng rẽ ; và nhất là ở
M ỹ quốc sinh hoạt đảng lại lỏng lẻo không chặt chẽ như ở Anh, Tổng thống M ỹ không
thể giải nhiệm hoặc áp dụng biện pháp kỷ luật đối với đảng viên thuộc đảng của mình,
một khi họ không bỏ phiếu cho chính sách của mình. Nếu trong khi một vị thủ tướng của
chế độ đại nghị với đa số của nghị viện thuộc đảng của mình là đảm bảo chắc chắn cho
chương trình lập pháp mà ông ta đề xuất sẽ được Quốc hội thông qua, thì một vị tổng
thống trong chế độ tổng thống cộng hoà, khi giao thiệp với một quốc hội có đa số không
cùng đảng, mà lại cũng có những đặc quyền như mình, thường phải dùng đến phương
pháp thương nghị trường kỳ, mới có thể đảm bảo dự luật do mình đưa ra được thông qua
tại Quốc hội.
Ở Mỹ, cũng như ở bất cứ nền dân chủ nào khác, sự đảm bảo quan trọng nhất về
trách nhiệm của chính quyền là sự kiểm soát chính quyền thông qua các cuộc bầu cử..
M ỗi một cuộc bầu cử như là một cuộc sát hạch chính quyền lớn. Nếu như nhân dân vẫn
tin tưởng, thì chính quyền cũ vẫn còn tại vị. Ngược lại thì phải ra đi nhường lại chính
quyền cho một lực lượng khác.
Khác với chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà nước tư sản được tổ chức và thành lập theo
nguyên tắc phân chia quyền lực. Vì vậy, đối tượng bầu cử trong nhà nước tư sản được áp
dụng rộng rãi hơn. Không những chỉ trực tiếp bầu ra các nghị sĩ như trong nhà nước xã
hội chủ nghĩa, cử tri của nhà nước tư bản còn bầu ra các quan chức cao cấp khác như
tổng thống, các thị trưởng. Như vậy có thể suy ra rằng, số lần bầu cử được tỷ lệ thuận với
mức độ phân quyền của mỗi quốc gia. Càng phân quyền bao nhiêu, càng có bầu cử nhiều
bấy nhiêu và sự hạn chế quyền lực nhà nước càng được gia tăng bấy nhiêu.
Ở một số nước, mà Nghị viện có cơ cấu hai viện, thường Hạ viện là viện do nhân
dân trực tiếp bầu ra. Thượng viện được thành lập bằng bầu cử gián tiếp hoặc do chỉ định,
do truyền ngôi thế tập. Bên cạnh những nước có quy định như trên, cũng có những nước
có thượng viện và hạ viện đều do nhân dân trực tiếp bầu ra. Bầu cử trực tiếp hoặc gián
tiếp là cơ sở xác định thẩm quyền của cơ quan nhà nước. Về nguyên tắc, cơ quan nhà
nước được nhân dân trực tiếp bầu ra bao giờ cũng có nhiều quyền hơn cơ quan được hình
thành bằng phương pháp bầu cử gián tiếp. Hạ nghị viện do nhân dân trực tiếp bầu ra theo
quy định của nhiều nước bao giờ cũng có nhiều quyền hơn thượng viện.
Tổng thống Mĩ do cử tri gián tiếp, nhưng đích thực là trực tiếp bầu ra, có nhiều
quyền lực thực tế hơn tổng thống của Cộng hoà liên bang Đức được bầu ra dựa trên cơ sở
của nghị viện (không do dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu ra) . Sự tấn phong của nhân dân
M ĩ đã làm cho tổng thống có quyền lực ngang hàng với Nghị viện Mĩ. Thủ tướng Anh do
Nữ hoàng bổ nhiệm. Nhưng Nữ hoàng không thể bổ nhiệm người nào đó khác hơn là
người thủ lĩnh của đảng chiếm đa số ghế trong Hạ nghị viện. Như vậy, qua cuộc bầu cử
7
trực tiếp nghị sĩ vào Hạ nghị viện, nhân dân nước Anh đã tự lựa chọn cho mình một vị
thủ tướng. Chính đây là điểm lý giải thích tại sao Thủ tướng Anh quốc có quyền năng
hơn các cơ quan khác của nhà nước Anh so với chế độ phong kiến và chế độ chiếm hữu
nô lệ trước đây, việc áp dụng phương pháp bầu cử để thành lập ra các cơ quan nhà nước
của chế độ tư sản là một phương pháp dân chủ. Nó đã giúp cho nhân loại loại trừ khỏi
quan niệm đã ngự trị từ xa xưa: Quyền lực nhà nước xuất phát từ cõi "hư vô" do thiên
đình định đoạt ai, dòng họ nào vốn dĩ sinh ra là được quyền thống trị người khác. Nhưng
có được như ngày nay nhân loại phải trải qua cuộc đấu tranh hết sức bi tráng hy sinh
nhiều xương máu, hết đời này qua đời khác.
Giai cấp thống trị tư sản cùng với giai cấp phong kiến tìm hết thủ đoạn này, sang
thủ đoạn khác để nhằm mục đích hạn chế sự tham gia của nhân dân lao động vào các
cuộc bầu cử. Lúc ban đầu bầu cử chỉ là công việc của những người thuộc tầng lớp thượng
lưu của giai cấp thống trị, sau đấy là của những người có của, những người đàn ông, của
những người có quốc tịch nguyên thuỷ, ... Mãi sau này, năm 1972, vào những năm cuối
thể