Luật học - Chương 6: Quan hệ sở hữu trong tư pháp quốc tế

I. KHÁI QUÁT CHUNG • 1. Khái niệm quan hệ sở hữu Quyền sở hữu là chế định trung tâm trong pháp luật dân sự của bất kỳ quốc gia nào. Pháp luật các nước quy định về quyền sở hữu không giống nhau, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: trình độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, phong tục tập quán, Vì vậy, các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài thường phát sinh xung đột pháp luật

pdf25 trang | Chia sẻ: hoang16 | Lượt xem: 1219 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật học - Chương 6: Quan hệ sở hữu trong tư pháp quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 6 QUAN HỆ SỞ HỮU TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ • I. KHÁI QUÁT CHUNG • 1. Khái niệm quan hệ sở hữu Quyền sở hữu là chế định trung tâm trong pháp luật dân sự của bất kỳ quốc gia nào. Pháp luật các nước quy định về quyền sở hữu không giống nhau, điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: trình độ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, phong tục tập quán, Vì vậy, các quan hệ sở hữu có yếu tố nước ngoài thường phát sinh xung đột pháp luật. 2. 2. Quan hệ sở hữu do Tư pháp quốc tế điều chỉnh • - Chủ sở hữu tài sản là người nước ngoài hoặc đang cư trú ở nước ngoài; • - Tài sản trong quan hệ sở hữu đó đang hiện diện ở nước ngoài; • - Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ sở hữu xảy ra ở nước ngoài. • 3. Nội dung điều chỉnh của Tư pháp quốc tế đối với quan hệ sở hữu • - Giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu; • - Giải quyết xung đột về thẩm quyền giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu; • - Vấn đề quốc hữu hóa tài sản thuộc quyền sở hữu của người nước ngoài. • II. GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT TRONG MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ SỞ HỮU • 1. Tư pháp quốc tế các nước • 1.1 Nguyên tắc chung Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều thống nhất áp dụng một nguyên tắc chung nhằm giải quyết xung đột pháp luật về quyền sở hữu là: áp dụng luật của nước nơi có tài sản (Lex rei sitae hoặc Lex situs objectus Luật nơi có đối tượng của quyền sở hữu). • 1.2 Giải quyết xung đột pháp luật về phạm vi, nội dung, điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu • Nguyên tắc chung được thừa nhận là quyền sở hữu đối với tài sản phát sinh theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó và khi tài sản đó di chuyển sang quốc gia khác thì quyền sở hữu đó vẫn tiếp tục được quốc gia nơi tài sản di chuyển đến thừa nhận và bảo hộ. • Để giải quyết xung đột pháp luật về phạm vi, nội dung, điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu đối với tài sản phần lớn các nước đều áp dụng nguyên tắc Luật nơi có tài sản (Lex rei sitae). • 1.3 Bảo hộ quyền của người thủ đắc trung thực • - Để bảo hộ quyền lợi của người thủ đắc trung thực (người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình) trước yêu cầu đòi lại tài sản từ phía chủ sở hữu pháp luật các nước thường áp dụng nguyên tắc Luật của nước hiện đang có tài sản hoặc Luật của nước nơi có tài sản vào thời điểm thủ đắc. • 1.4 Giải quyết xung đột pháp luật về định danh tài sản • Để phân biệt tài sản là động sản hay bất động sản các nước đều áp dụng Luật nơi có tài sản. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử của Pháp đã áp dụng Luật tòa án (Lex fori) để định danh tài sản. • 1.5 Các trường hợp ngoại lệ không áp dụng Luật nơi có tài sản • - Quan hệ về tài sản liên quan đến các tài sản của quốc gia đang ở nước ngoài; • - Lĩnh vực hàng không, hàng hải: pháp luật các nước thường quy định áp dụng pháp luật của nước mà tàu biển mang cờ quốc tịch hoặc pháp luật của nước nơi đăng ký quốc tịch tàu bay; • - Quan hệ sở hữu đối với đối tượng của sở hữu trí tuệ: pháp luật các nước thường quy định áp dụng pháp luật của nước nơi đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ; • - Quan hệ về tài sản của pháp nhân nước ngoài khi pháp nhân đó bị giải thể: pháp luật các nước thường quy định áp dụng pháp luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch; • - Quan hệ tài sản liên quan đến các đối tượng của các đạo luật về quốc hữu hóa; • - Quan hệ đối với tài sản đang trên đường vận chuyển. • 1.6 Giải quyết xung đột pháp luật đối với tài sản đang trên đường vận chuyển, tài sản quá cảnh qua nhiều quốc gia • Thuật ngữ quá cảnh (transit) được hiểu là việc vận chuyển tài sản hoặc hành khách đi qua lãnh thổ của một hay nhiều nước nào đó để đến nước thứ ba hoặc ít nhất phải đi qua vùng biển quốc tế. Như vậy, việc vận chuyển hàng hóa từ lãnh thổ quốc gia này sang lãnh thổ quốc gia khác có cùng đường biên giới quốc gia không được coi là quá cảnh. • Pháp luật nước nơi gửi tài sản đi (Legi loci expeditionis); • Pháp luật nước nơi nhận tài sản (Legi loci destinationis); • Pháp luật nước mà phương tiện vận tải mang quốc tịch (nếu vận chuyển bằng đường biển hoặc đường không); • Pháp luật của nước nơi có trụ sở của Tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp (Legi fori); • Pháp luật của nước nơi hiện đang có tài sản (Legi rei sitae); • Pháp luật của nước do các bên lựa chọn (Legi voluntatis). • 1.7 Giải quyết xung đột pháp luật về thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu và rủi ro • Nguyên tắc của Luật La Mã, theo đó, thời điểm chuyển dịch rủi ro từ người bán sang người mua được tính từ khi ký kết hợp đồng mà không phụ thuộc vào thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu từ người bán sang người mua (periculum est emptoris). • Nguyên tắc “res perit domino” (rủi ro do chủ sở hữu gánh chịu). Theo nguyên tắc này, thời điểm chuyển dịch rủi ro trùng với thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu. Tuy nhiên, thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu lại được quy định khác nhau. • 2. Theo Tư pháp quốc tế Việt Nam • 2.1 Nguyên tắc chung. Theo pháp luật Việt Nam, việc giải quyết xung đột pháp luật về phạm vi, nội dung, điều kiện phát sinh, chấm dứt và chuyển dịch quyền sở hữu đối với tài sản Việt Nam cũng áp dụng nguyên tắc Luật nơi có tài sản (Lex rei sitae). Khoản 1 Điều 766 Bộ Luật dân sự năm 2005 thì: “Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở hữu đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản đó ”. • 2.2 Bảo hộ quyền của người thủ đắc trung thực • Khoản 1 Điều 247 Bộ Luật dân sự 2005 “Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu” quy định: “Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu ” • 2.3 Giải quyết xung đột pháp luật về định danh tài sản • Theo pháp luật Việt Nam, việc định danh tài sản áp dụng nguyên tắc luật nơi có tài sản. • Khoản 3 Điều 766 Bộ Luật dân sự 2005 quy định: “Việc phân biệt tài sản là động sản hoặc bất động sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản”. • Ngoài ra, trong các hiệp định tương trợ tư pháp Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký với các nước cũng đều có quy định về vấn đề định danh tài sản theo nguyên tắc luật nơi có tài sản. • 2.4 Giải quyết xung đột pháp luật đối với tài sản đang trên đường vận chuyển, tài sản quá cảnh qua nhiều quốc gia • Theo pháp luật Việt Nam, để giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tài sản đang trên đường vận chuyển thì Luật nước nơi nhận tài sản (Legi loci destinationis) được áp dụng. • Khoản 2 Điều 766 Bộ Luật dân sự 2005 thì: “Quyền sở hữu đối với động sản trên đường vận chuyển được xác định theo pháp luật của nước nơi động sản được chuyển đến, nếu không có thỏa thuận khác”. • 2.5 Giải quyết xung đột pháp luật về thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu và rủi ro • - Về thời điểm chuyển dịch quyền sở hữu: Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua, kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển giao cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. • Điều 439 Bộ Luật dân sự 2005 quy định: • “1. Quyền sở hữu đối với tài sản mua bán được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm tài sản được chuyển giao, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. • 2. Đối với tài sản mua bán mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì quyền sở hữu được chuyển cho bên mua kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký quyền sở hữu đối với tài sản đó. - Về thời điểm chuyển rủi ro: Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay thì thời điểm chuyển rủi ro đối với tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu là thời điểm tài sản được bên bán giao cho bên mua nếu các bên không có thỏa thuận khác; đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu thì rủi ro được chuyển từ người bán sang người mua từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký nếu các bên không có thỏa thuận khác. Điều 440 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định: “Bên bán chịu rủi ro đối với tài sản mua bán cho đến khi tài sản được giao cho bên mua, còn bên mua chịu rủi ro đối với tài sản mua bán kể từ khi nhận tài sản, nếu không có thỏa thuận khác. Đối với hợp đồng mua bán tài sản mà pháp luật quy định tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu thì bên bán chịu rủi ro cho đến khi hoàn thành thủ tục đăng ký, bên mua chịu rủi ro kể từ thời điểm hoàn thành thủ tục đăng ký, kể cả khi bên mua chưa nhận tài sản, nếu các bên không có thỏa thuận khác”. III. VẤN ĐỀ QUỐC HỮU HÓA TRONG TƯ PHÁP QUỐC TẾ 1. Khái niệm quốc hữu hóa Thông thường, quốc hữu hóa được hiểu là việc chuyển giao công cụ và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tư nhân sang sở hữu nhà nước bằng biện pháp hành chính. 2. Hiệu lực của đạo luật quốc hữu hóa Đa số pháp luật các nước đều thừa nhận rằng các đạo luật quốc hữu hóa đều mang tính chất “trị ngoại lãnh thổ”. Theo tính chất này, các đạo luật quốc hữu hóa không những có hiệu lực trên lãnh thổ của quốc gia ban hành mà có hiệu lực ở nước ngoài. Trên cơ sở đó, quốc gia tiến hành quốc hữu hóa phải được thừa nhận là chủ sở hữu của tất cả những tài sản thuộc đối tượng điều chỉnh của đạo luật quốc hữu hóa – kể cả những tài sản trên lãnh thổ của quốc gia khác.