Pháp chế không phải là cách duy nhất để giữ gìn kỷ
cương cho xã hội, mà phong tục, tập quán, tôn giáo
và chuẩn mực văn hóa ứng xử cũng đóng một vai trò
thiết yếu
Các luật thành văn không bao giờ là đầy đủ vì không
ai có thể nghĩ đến mọi tình huống ngay trong hiện tại
nói chi đến xã hội tương lai có thể xảy ra
Soạn luật cũng như bộ máy thi hành luật (công an, tòa
án, khám đường) là những hoạt động cần tài nguyên
(luật gia, công an, cai ngục) có thể sử dụng vào việc
hữu ích khác (chi phí và lợi ích của việc cấm ca sĩ ăn
mặc hở hang)
40 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 785 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật học - Pháp chế và phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Pháp chế và phát triển
Pháp chế không phải là cách duy nhất để giữ gìn kỷ
cương cho xã hội, mà phong tục, tập quán, tôn giáo
và chuẩn mực văn hóa ứng xử cũng đóng một vai trò
thiết yếu
Các luật thành văn không bao giờ là đầy đủ vì không
ai có thể nghĩ đến mọi tình huống ngay trong hiện tại
nói chi đến xã hội tương lai có thể xảy ra
Soạn luật cũng như bộ máy thi hành luật (công an, tòa
án, khám đường) là những hoạt động cần tài nguyên
(luật gia, công an, cai ngục) có thể sử dụng vào việc
hữu ích khác (chi phí và lợi ích của việc cấm ca sĩ ăn
mặc hở hang)
Phát triển kinh tế cần
1. Vốn
2. Tạo một cơ chế xã hội năng động
(người người hăng say đóng góp hết
khả năng sản xuất của mình)
3. Ngăn cản những hoạt động làm kém
hiệu quả kinh tế (dù chúng có đem lại
lợi nhuận riêng) chẳng hạn như độc
quyền
Pháp chế và vốn
Hermando De Soto trong tác phẩm sự huyền bí của vốn cho rằng
các nước chậm tiến ngày nay không phải vì họ thiếu vốn, nhưng
vì vốn ấy không sử dụng được hay còn gọi là vốn chết.
Muốn được sử dụng trọn vẹn, vốn còn phải đóng vai trò của vật
cầm cố (collateral). Nhà cửa và đất đai có thể mua đi bán lại
không cần giấy tờ nhưng vẫn chưa tận dụng hết vai trò của
“quyền sở hữu”
Trong kinh tế thị trường, ta cần có khế ước dài ngày (mua nhà, ôtô
trả góp) và khế ước này chỉ có thể ký giữa những người không
quen biết nếu có vật cầm cố
Tóm lại, luật pháp chính thức hóa quyền sở hữu có một chức
năng đặc biệt – tăng nổ lực sản xuất và tạo cô hội cho mọi người
có cái vốn thật và sống để tham gia vào thị trường tài chính.
Lý thuyết De Soto trên thực tế
1. Pêru: Chỉ có 20% số người được cấp “sổ đỏ”
là có thêm vốn, mà vốn này lại hoàn toàn từ
nhà nước, không một xu nào là từ khu vực tư!
2. Ngân hàng tư phát giác là các ổ chuột không
có giá trị gì cả, do đó họ thay đổi tiêu chuẩn
cho vay: đòi người đi vay phải có công ăn
việc làm thay vì chỉ có bằng khoán đất. Hơn
nữa, thị trường nhà đất ở những khu ổ chuột
thường khá im lìm. Không ai bán được nhà
để lấy vốn làm ăn
Lý thuyết De Soto trên thực tế
Có những nơi chính sách De Soto chỉ
mang hại. Campuchia chẳng hạn. Trước
khi có bằng khoán thì giá bán đất ở trung
tâm TP khoảng $20 - $30/m2. Gần đó
đất có bằng khoán thì giá gấp 10.
Chương trình này chỉ có lợi cho những
người sẵn giàu
Tính không thể đầy đủ của luật pháp
Khế ước thành văn không bao giờ có thể đầy đủ
(incomplete contract), tức là không kê rõ mọi tình
huống có thể xảy ra và tất cả các cách đối phó.
Chính vì vậy mà phong tục, tập quán, tôn giáo có giá
trị kinh tế mặc dù cũng là không hoàn toàn vì có
những tình huống mới mà xã hội chưa từng biết. Ăn
cắp ý tưởng, mô phỏng tác phẩm văn học, sao chép
một bản nhạc.
Một vài thể chế phi luật pháp có thể là phương cách
mà xã hội đối phó với tính không dầy đủ của luật
pháp. Nếu vô tình làm suy yếu thể chế này thì chúng
ta sẽ thụt lùi trên con đường phát triển
Sự tin cẩn
Theo Eric Uslaner (2002) có 2 loại tin cẩn: tin cẩn vì
quen biết nhau, có kinh nghiệm làm ăn với nhau và tin
cẩn vì chia sẻ những giá trị văn hóa và đạo đức với
nhau.
Tin cẩn chiến lược là giảm chi phí giao dịch: nếu tôi
biết anh, đã có kinh nghiệm làm ăn với anh, thì tôi sẽ
khỏi tốn thời giờ thương lượng với anh, thuê thám tử
điều tra anh, hoặc cần luật sư soạn thảo hợp đồng chi
tiết với anh.
Tin cẩn đạo đức cũng giảm chi phí giao dịch: tôi không
biết anh, nhưng nếu anh là người cùng tôn giáo với
tôi, thì tôi cũng tin là anh sẽ tuân những điều răn trong
sách đạo và không cần đem anh ra tòa ký giao kèo về
việc gì đó.
Nếu một xã hội tham nhũng thì tin cẩn đạo
đức sẽ kém đi (nếu không còn ai tin vào sự
trong sạch và công minh của các quan chức
thì mọi người sẽ đâm ra phó mặc, chỉ quan
tâm đến quyền lợi của mình và gia đình mình)
Song chiều ảnh hưởng cũng có thể ngược lại:
tin cẩn đạo đức kém đi thì xã hội nhiều tham
nhũng (người cầm quyền sẽ không còn đoái
hoài gì đến người dân). Như vậy bảo tồn tin
cẩn đạo đức là cần thiết
Cơ quan hành pháp và tư pháp độc lập công bằng và
hữu hiệu thì bạn sẽ nghĩ những kẻ làm bậy sẽ khó
tránh khỏi bàn tay của pháp luật, do đó bạn sẽ cho là
ít người dám làm bậy và vì thế mà bạn tin cẩn nhiều
người hơn.
Nếu sự gian dối ngày càng nhiều và trở thành chuẩn
mực đối xử thì thông tin do đối tác cung cấp bị nhiễu,
ta phải mất tiền điều tra, thuê luật sư làm khế ước chi
tiết, hậu quả là chi phí giao dịch tăng lên.
Nếu những người ngay thật và trung thực mà bị chê là
ngu khờ, thì vốn văn hóa và xã hội đều suy mòn
Kết luận
Khi niềm tin giảm xuống thì chi phí sản
xuất lên cao, xã hội cần nhiều luật pháp
hơn và chính sách nhà nước ít hữu hiệu
hơn.
Kiện toàn hệ thống pháp chế là cần thiết
để phát triển, nhưng đồng thời cũng phải
giữ những thể chế bất thành văn khác
của xã hội để bổ túc cho pháp chế.
Vốn xã hội và phát triển
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế
theo lý thuyết kinh tế học cổ điển
Đất đai
Lao động
Vốn vật thể
1950s – 1960s: các liên hệ xã hội, lối
sống cổ truyền bị xem là trở ngại cho
phát triển (WB, 1951)
Kinh tế học tân cổ điển (Theodore
Schultz và Gary Becker) có đề nghị thêm
vốn con người vào thành tố của phát
triển nhưng không chú ý đến quan hệ xã
hội.
Vốn xã hội
1. Sự tin cẩn giữa những người trong một
cộng đồng (không nhất thiết là toàn bộ
quốc gia)
2. Sự tuân theo thói lề, phong tục của cộng
đồng (không cần pháp luật cưỡng chế
hoặc hấp dẫn của quyền lợi vật chất)
3. Mạng lưới xã hội (hiệp hội, gia tộc)
Tại sao gọi nguồn lực này là vốn?
1. Vốn xã hội có thể tích lũy như các nguồn lực
khác (chẳng hạn như vốn tài chính do tiết kiệm
mà có được) với mong mỏi sẽ có thêm thu
hoạch trong tương lai (dù không chắc chắn)
2. Vốn xã hội có thể sử dụng trong nhiều việc khác
(Coleman, 1988). (Người bạn của anh có thể
nhờ giới thiệu việc làm cho anh, giúp anh làm
một việc gì đó và cũng thể “tâm sự”, khỏi tốn tiền
bác sĩ tâm lý)
3. Vốn xã hội có thể chuyển thành nguồn lực khác
(tuy không dễ dàng như vốn tài chính)
Vốn XH khác so với các vốn khác
Khác vốn tài chính (nhưng lại giống vốn vật thể và
vốn con người), vốn XH cần được nuôi dưỡng,
bảo trì để tiếp tục có ích (mối liên hệ sẽ phai nhạt
nếu không giữ liên lạc thường xuyên)
Khác với vốn vật thể (nhưng lại giống với vốn con
người) không thể tiên đoán suất chiết khấu
(cannot predict discount rate) (chiếc xe chạy càng
lâu thì càng giảm giá, nhưng không thể tiên đoán
được giá trị của một mối liên hệ so với mức độ
mà 2 người giữ liên lạc với nhau)
Vốn XH khác so với các vốn khác
Vốn xã hội là hàng hóa công (không ai có quyền sở
hữu mà ngăn chặn lợi ích đến những người khác):
Không giống vốn khác ở chỗ là sản phẩm của tập
thể, chứ không phải của cá nhân. Nó tùy thuộc vào
lòng tốt của kẻ khác, sự “có đi có lại” của nhiều
người và lợi ích của nó là của chung.
Ngược lại, chỉ có vài cá nhân cũng làm đổ vỡ vốn
XH mà đã dày công xây dựng (một vài người lương
lẹo thôi cũng đủ làm cho không ai tin vào ai nữa cả)
Vốn XH càng sử dụng thì giá trị càng tăng (khác với
vốn vật thể)
Vốn XH và phát triển kinh tế
Vốn XH giúp giải quyết bài toán của tập thể
1. Mọi người đều khấm khá hơn nếu mỗi người
làm một việc nhỏ (đóng thuế, ngừng ở đền đỏ,
không xả rác)
2. Kết tinh chuẩn mực của cư xử, kỳ vọng chung
của các thành viên để giải quyết bài toán phối
hợp (coordination problems), chẳng hạn như
bài toán thế tiến thoái lưỡng nan.
3. Giải thích vấn đề vĩ mô như là sự thất bại phối
hợp (coordination failures) (thất nghiệp, lạm
phát)
Vốn XH và phát triển kinh tế
Vốn XH tiết kiệm chi phí giao dịch
(transaction costs)
1.Sẽ ít rủi ro kinh tế hơn nếu đối tác liên hệ
cho rằng mọi người theo đúng chuẩn tắc
cư xử (tự trọng, mất danh giá gia đình, giữ
chữ tín)
2.Không tốn thời gian và tiền bạc để đảm
bảo đối tác chu toàn trách nhiệm
Vốn XH và phát triển kinh tế
Vốn XH có ảnh hưởng quan trọng đến
chất lượng và tốc độ tích lũy của những
loại vốn khác (làm tăng vốn con người,
Coleman, 1988). Vốn XH làm dịch chuyển
hàm SX gộp của cả nước
Vốn XH và phát triển kinh tế
Trong một XH nghèo vốn xã hội (ít tin cẩn)
quyết định thuê mướn nhân viên thường
do giới thiệu người thân hay quen biết
riêng, ít dính dáng đến khả năng làm công
việc đó Muốn tiến thân trong XH thiếu
tin cẩn thì tìm cách móc nối thay vì phải
trau dồi khả năng hay kiến thức chuyên
môn.
Vốn XH và phát triển kinh tế
Xã hội nhiều vốn XH là XH ít tội phạm.
Xã hội mà các thành viên tin cẩn lẫn
nhau thi con người sẽ có lòng tốt với
nhau. Lợi ích kinh tế mang lại không nhỏ
Vốn XH và phát triển kinh tế
Mối quan hệ giữa vốn xã hội và pháp
chế
Tăng mức khả tín đối với các quan chức
nhà nước
Một xã hội đoàn kết, ít chia rẽ sẽ dễ
dàng phục hồi sau cú sốc về kinh tế.
Rodrik (1999) cho rằng cú sốc này đòi
hỏi phải quản lý các quyền lợi khác nhau
trong XH.
Vốn XH và chính sách phát triển
Hoạch định chính sách can thiệp đòi hỏi
phải nhận dạng mọi thành phần liên hệ
và các thể chế
Phải xem vốn XH là nguồn lực như các
nguồn lực khác. Vốn XH là hàng hóa
công (không được thị trường cung ứng
đầy đủ) cho nên sự hỗ trợ của chính phủ
là cần thiết
Vốn XH và chính sách phát triển
Vốn XH thường là thuộc tính của cộng
đồng, ít khi của toàn thể quốc gia. Cho
nên chính sách phát triển vốn XH không
thể là một chính sách chung chung. Sự
phân cực manh mún trong XH làm giảm
vốn XH. Muốn phát triển kinh tế, chúng
ta phải vượt lên trên chia rẽ trong XH,
làm XH gắn kết hơn.
Vốn XH và chính sách phát triển
Cần liên kết những nhóm XH, xét tính
tương tác giữa các nhóm XH, để tiến
đến sự đồng thuận trong khi đề ra các
quyết định
Tiêu chuẩn chấp thuận một dự án hỗ trợ
không thể chỉ dựa vào các tiêu chuẩn
công nghiệp và tài chính, mà còn phải
dựa vào vốn XH của địa phương.
Vốn XH và chính sách phát triển
Nhà nước tăng cường đầu tư vào
phương tiện truyền thông đại chúng để
tiết lộ thông tin ở mọi cấp, để công dân
có tính trách nhiệm hơn ở khu vực công
và khu vực tư.
Xem vốn XH như thành tố bổ túc trong
quá trình phát triển chứ không phải là
quan trọng nhất.
Vốn văn hóa
Vốn văn hóa
Bản sắc văn hóa dân tộc
Di sản lịch sử
Truyền thống cách mạng
Văn hóa là gì?
1. Là hoạt động có tính văn chương nghệ
thuật (viết văn, làm thơ, soạn nhạc, tạc
tượng hoặc vẽ tranh)
2. Theo quan điểm của nhân chủng và xã
hội học thì văn hóa là phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, là hiện thân của giá
trị cộng đồng được chấp nhận
Vốn văn hóa phải được nhìn nhận
như một loại vốn khác
Vốn vật thể (nhà xưởng, máy móc)
Vốn con người (kỹ năng, kiến thức)
Vốn thiên nhiên (TNTN và môi trường
sinh thái)
Vốn văn hóa có 2 loại: vốn văn hóa vật
thể và vốn văn hóa phi vật thể
Đặc điểm của vốn văn hóa
1. Vốn văn hóa vật thể làm tăng giá trị kinh tế
của vật thể
2. Vốn văn hóa phi vật thể thì đan xen với giá
trị kinh tế mà không thể tách rời được
(không giá trị kinh tế thông thường vì không
thể mua bán trên thị trường)
3. Vốn văn hóa cũng giống như vốn thiên
nhiên, không bảo dưỡng sẽ bị mất và suất
chiết khấu của nó như thế nào?
Chính sách về văn hóa
Giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc là một nhiệm
vụ quan trọng, nhưng không nên quá cực đoan với trào
lưu văn hóa mới
Phải công nhận sự năng động và sáng tạo của loại hình
nghệ thuật mới, sự thưởng ngoạn mới
Chính sách văn hóa phải tôn trọng thực tế của thị trường
trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, không bị ảnh
hưởng của những ảo tưởng và cảm tính chủ quan (hy
sinh quá lớn về kinh tế)
Nền văn hóa nê có tranh luận, bàn cãi và bút chiến nữa
trên tinh thân khoa học, cởi mở, không cá nhân. Nền văn
hóa lành mạng là nền văn hóa sống, linh động và hãy để
cho người thưởng ngoạn bình chọn.