Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu của con người trong việc đối mặt với rủi 
ro, đó là nguy cơxảy ra thiệt hại vềsức khoẻ, tính mạng hoặc tài sản. Chính vì 
vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một ngành dịch vụphát triển từlâu ởcác 
quốc gia trên thếgiới và ngày càng có vịtrí quan trọng trong nền kinh tế. ỞViệt 
Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo 
hiểm (LKDBH) được ban hành ngày 9/12/2000 và có hiệu lực từngày 1/4/2001. 
Đây là một văn bản hết sức quan trọng, là cơsở đểphát triển thịtrường bảo hiểm 
Việt Nam. Từchỗcó rất ít doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) thì cho đến nay, tham 
gia thịtrường này gồm rất nhiều DNBH thuộc nhiều thành phần kinh tế, trong đó 
có những DNBH nổi tiếng của nước ngoài cũng tham gia đầu tưvào Việt Nam. 
Đến hết năm 2007, tổng sốdoanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọcó mặt tại thị
trường Việt Nam là 23 doanh nghiệp, 9 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 doanh 
nghiệp tái bảo hiểm, 8 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 12 trang
12 trang | 
Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1917 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật Kinh doanh bảo hiểm, những nội dung cần hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luật Kinh doanh bảo hiểm – Những nội 
dung cần hoàn thiện 
THS. TRẦN VŨ HẢI – ĐH LUẬT HÀ NỘI
1. Đặt vấn đề
 Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu của con người trong việc đối mặt với rủi 
ro, đó là nguy cơ xảy ra thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng hoặc tài sản. Chính vì 
vậy, hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một ngành dịch vụ phát triển từ lâu ở các 
quốc gia trên thế giới và ngày càng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Ở Việt 
Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm được điều chỉnh bởi Luật kinh doanh bảo 
hiểm (LKDBH) được ban hành ngày 9/12/2000 và có hiệu lực từ ngày 1/4/2001. 
Đây là một văn bản hết sức quan trọng, là cơ sở để phát triển thị trường bảo hiểm 
Việt Nam. Từ chỗ có rất ít doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) thì cho đến nay, tham 
gia thị trường này gồm rất nhiều DNBH thuộc nhiều thành phần kinh tế, trong đó 
có những DNBH nổi tiếng của nước ngoài cũng tham gia đầu tư vào Việt Nam. 
Đến hết năm 2007, tổng số doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có mặt tại thị 
trường Việt Nam là 23 doanh nghiệp, 9 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 doanh 
nghiệp tái bảo hiểm, 8 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 
.
 Một cách khái quát nhất, LKDBH trong thời gian qua đã điều chỉnh tương 
đối toàn diện các vấn đề pháp lý về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bao gồm các 
nội dung chủ yếu: địa vị pháp lý của DNBH; hợp đồng bảo hiểm; đầu tư nước 
ngoài vào lĩnh vực bảo hiểm, v.v.. Với phạm vi điều chỉnh rộng, LKDBH đã góp 
phần phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam và là công cụ quan trọng để các cơ 
quan nhà nước có thẩm quyền quản lý hoạt động kinh doanh đặc thù này một cách 
có hiệu quả. 
 Tình hình thị trường bảo hiểm trong những năm qua có nhiều bước phát 
triển rõ rệt. Đã có những thời kỳ tốc độ phát triển thị trường bảo hiểm (cả bảo 
hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ) ở mức cao, và lĩnh vực bảo hiểm trở 
thành một ngành nghề kinh doanh hấp dẫn. Nhiều hãng bảo hiểm nước ngoài có 
kinh nghiệm luôn đánh giá cao về tiềm năng phát triển thị trường bảo hiểm Việt 
Nam, ngay cả trong giai đoạn hiện nay, mặc dù thị trường bảo hiểm nhân thọ đang 
có những trầm lắng nhất định. 
 Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, qua thời gian qua, LKDBH cũng 
đã bộc lộ những bất cập làm giảm sút hiệu quả điều chỉnh pháp luật. Những bất 
cập này có nhiều nguyên nhân, nhưng tập trung chủ yếu là do các nguyên nhân cơ 
bản sau đây: 
 – Kỹ năng xây dựng pháp luật trong giai đoạn đầu đổi mới còn hạn chế. 
 Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, các cơ quan nhà nước có thẩm 
quyền và đội ngũ chuyên gia pháp lý nước ta đã có những cố gắng đáng ghi nhận 
trong việc xây dựng và dần hoàn thiện khung pháp lý cho thể chế kinh tế thị 
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với thực trạng kinh tế- xã hội 
của Việt Nam. Bên cạnh những văn bản như Luật Công ty, Bộ luật dân sự, Bộ luật 
lao động v.v., LKDBH ra đời đã có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng 
một nền kinh tế thị trường hoàn thiện. Tuy nhiên, những hạn chế về khả năng soạn 
thảo cũng như có nhiều vấn đề cần phải cân nhắc thêm được đặt ra trước nhà lập 
pháp đã làm ảnh hưởng đến chất lượng các quy định trong LKDBH. Đến nay, dựa 
vào kinh nghiệm ban hành hàng loạt các văn bản luật quan trọng như Luật doanh 
nghiệp, Luật đầu tư, Luật các tổ chức tín dụng, Luật chứng khoán v.v., được các 
chuyên gia đánh giá cao về kỹ năng soạn thảo, thì đã đến lúc cần đặt ra yêu cầu 
sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện LKDBH để đảm bảo cho hiệu lực điều chỉnh 
của văn bản này đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. 
 – Sự phát triển của thị trường bảo hiểm giai đoạn hiện nay cần có những 
quy định pháp luật mới phù hợp 
 Trong hơn mười năm kể từ khi LKDBH được ban hành, nền kinh tế nói 
chung và thị trường bảo hiểm đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại 
hình sản phẩm bảo hiểm được ra đời đáp ứng những nhu cầu khác nhau của các 
chủ thể trong nền kinh tế.[2] Với số lượng DNBH đông đảo, pháp luật phải thật sự 
trở thành một công cụ hữu hiệu để đảm bảo cạnh tranh lành mạnh và kinh doanh 
hiệu quả. Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh đang có những bước hội nhập sâu 
rộng, đòi hỏi hành lang pháp lý phải được xây dựng phù hợp. 
 – Những cam kết của Việt Nam trong quá trình hội nhập cần được thực 
hiện 
 Trong biểu cam kết dịch vụ gia nhập WTO của Việt Nam, dịch vụ bảo 
hiểm là một nội dung cam kết quan trọng. Những cam kết này phải được nội luật 
hoá trong LKDBH để đảm bảo thực hiện các thoả thuận quốc tế trong quá trình 
hội nhập của nước ta với nền kinh tế thế giới. Theo cam kết này, từ thời điểm 
1/1/2008, hầu hết các rào cản đối với hoạt động bảo hiểm của DNBH có vốn đầu 
tư nước ngoài phải được dỡ bỏ. Về hiện diện thương mại, đến cuối năm 2011 (5 
năm sau khi gia nhập), các DNBH nước ngoài được phép thành lập chi nhánh kinh 
doanh bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam.[3]
2. Về cấu trúc văn bản LKDBH
 Cấu trúc văn bản LKDBH hiện hành có nhiều điểm không hợp lý, cần phải 
được cơ cấu lại nhằm đảm bảo hiệu quả điều chỉnh pháp luật với tư cách là văn 
bản luật chuyên ngành. 
Thứ nhất, LKDBH hiện hành quy định về hợp đồng bảo hiểm tại chương II, 
còn những vấn đề pháp lý cơ bản điều chỉnh DNBH được quy định tại chương III. 
Thiết nghĩ, việc sắp xếp như vậy là không phù hợp vì các lý do sau đây: 
Một là, LKDBH cần phải coi trọng những nội dung điều chỉnh về hoạt động 
kinh doanh bảo hiểm, mà chủ thể kinh doanh chủ yếu là DNBH, nên sau chương I 
quy định về những vấn đề chung, thì chương II phải nên quy định về DNBH và 
một số chủ thể kinh doanh khác (sẽ phân tích ở phần sau bài này). 
Hai là, theo logic thì phải có doanh nghiệp mới có sản phẩm bảo hiểm, nên 
sau chế định về DNBH mới nên quy định về sản phẩm bảo hiểm (được thể hiện 
qua hợp đồng bảo hiểm). 
Thứ hai, nên xác định nội dung điều chỉnh của chương Hợp đồng bảo hiểm 
là điều chỉnh về các loại hình bảo hiểm (các sản phẩm bảo hiểm) để không trùng 
lắp với những quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng bảo hiểm và phù hợp với 
tinh thần của LKDBH là điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm với đối tượng 
của hoạt động kinh doanh này là các sản phẩm bảo hiểm, bao gồm bảo hiểm phi 
nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ. Do đó, chương về hợp đồng bảo hiểm nên đặt tên 
thành “Các sản phẩm bảo hiểm” 
 Thứ ba, mục chuyển giao hợp đồng bảo hiểm nên để thành một bộ phận 
của chương về hợp đồng bảo hiểm, vì đây là việc DNBH nhận chuyển giao thay 
thế DNBH chuyển giao để trở thành bên bảo hiểm của hợp đồng bảo hiểm. Do 
vậy, mặc dù có những quy định đặc thù nhưng thực chất đây là việc sửa đổi hợp 
đồng bảo hiểm. 
 Thứ tư, nên sáp nhập các quy định về doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và 
đại lý bảo hiểm vào phần quy định về doanh nghiệp bảo hiểm để thành một 
chương có tên gọi: các chủ thể kinh doanh bảo hiểm. Thiết nghĩ, đại lý bảo hiểm 
nhân danh DNBH để thực hiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nên phải là một 
phần trong quy định về DNBH. Bên cạnh đó, hoạt động môi giới bảo hiểm phải 
được coi là một nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm vì đây là một dịch vụ hết sức quan 
trọng đối với thị trường bảo hiểm (tương tự như nghiệp vụ môi giới chứng khoán 
của công ty chứng khoán). 
 Thứ năm, những quy định về tài chính, hạch toán, kế toán và báo cáo tài 
chính phải là một phần của chương về DNBH. Hoạt động tài chính của DNBH 
mặc dù có những đặc thù, song không nên đặt thành một chương riêng, vì đây là 
văn bản Luật điều chỉnh toàn diện về hoạt động kinh doanh bảo hiểm chứ không 
chỉ riêng về DNBH. 
 Thứ sáu, không nên đặt riêng một chương về DNBH có vốn đầu tư nước 
ngoài. Hiện nay, Việt Nam đã gia nhập WTO và thực hiện các cam kết bình đẳng 
về địa vị pháp lý của các chủ thể kinh doanh, như vậy, việc đặt ra một chương điều 
chỉnh riêng về DNBH có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn hiện nay là không 
thoả đáng. Tuy nhiên, để nội luật hoá các cam kết quốc tế của Việt Nam, việc xây 
dựng các quy định dành riêng cho hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bảo 
hiểm vẫn rất cần thiết. Do đó, chương về DNBH và doanh nghiệp môi giới bảo 
hiểm có vốn đầu tư nước ngoài nên đổi tên thành “Những quy định về đầu tư nước 
ngoài trong kinh doanh bảo hiểm” thiết nghĩ sẽ hợp lý hơn. 
 Như vậy, về cấu trúc của LKDBH có thể như sau: 
Chương 1: Những quy định chung 
Chương 2: Các chủ thể kinh doanh bảo hiểm 
Chương 3: Các sản phẩm bảo hiểm 
Chương 4: Những quy định về đầu tư nước ngoài trong kinh doanh bảo hiểm) 
Chương 5: Những quy định khác (khen thưởng, xử lý vi phạm và điều khoản thi 
hành) 
3. Một số quy định bất cập chủ yếu và phương hướng sửa đổi
Thứ nhất, giữa Bộ luật dân sự (BLDS) và LKDBH không thống nhất trong 
quy định trả tiền bảo hiểm khi người được bảo hiểm chết trong bảo hiểm con 
người. 
Trong BLDS năm 1995 và BLDS năm 2005, hợp đồng bảo hiểm cũng được 
quy định như là một loại hợp đồng thông dụng. Tuy nhiên, trong những quy định 
về hợp đồng bảo hiểm của BLDS, hoàn toàn không có quy định về người thụ 
hưởng mà chỉ có quy định về người được bảo hiểm, nhưng khái niệm về người 
được bảo hiểm cũng không được BLDS nêu ra. Tuy nhiên, người thụ hưởng là 
một chủ thể liên quan rất quan trọng trong hợp đồng bảo hiểm con người. Điều 
này tất yếu dẫn đến những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật. 
Tại Điều 582 BLDS năm 1995 quy định về bảo hiểm tính mạng có ghi 
nhận: “Trong trường hợp bảo hiểm tính mạng, thì khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên 
bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm hoặc người đại diện theo 
uỷ quyền của họ; nếu bên được bảo hiểm chết, thì tiền bảo hiểm được trả cho 
người thừa kế của bên được bảo hiểm”. Tuy nhiên trong LKDBH lại quy định, 
người thụ hưởng là người được bên mua bảo hiểm chỉ định nhận tiền bảo hiểm 
trong bảo hiểm con người và người thụ hưởng có thể không phải là người được 
bảo hiểm. Như vậy, nếu người được bảo hiểm chết, theo quy định của BLDS, số 
tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thừa kế của người được bảo hiểm, còn theo quy 
định của LKDBH, số tiền bảo hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng, và có thể họ 
không phải là người (hoặc những người) thừa kế của người được bảo hiểm. Sự bất 
cập này vẫn được giữ nguyên mà không được sửa đổi trong BLDS năm 2005 
(Điều 578). Thiết nghĩ, nên sửa đổi Điều 578 theo hướng, việc trả tiền bảo hiểm 
phải theo thoả thuận, có thể trả cho người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. 
Nếu người được bảo hiểm chết mà không phải là người thụ hưởng, thì số tiền bảo 
hiểm sẽ trả cho người thụ hưởng. Số tiền bảo hiểm chỉ được coi là di sản thừa kế 
của người được bảo hiểm nếu không có người thụ hưởng. Quy định như vậy mới 
đúng với mục đích của bên mua bảo hiểm trong bảo hiểm con người và cũng 
không làm ảnh hưởng đến sự điều chỉnh các loại hợp đồng bảo hiểm khác. 
Thứ hai, LKDBH còn thiếu sự giải thích một số thuật ngữ rất phổ biến 
trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (ví dụ như thuật ngữ giá trị hoàn lại và chi phí 
hợp lý, v.v.), mặc dù những thuật ngữ này được sử dụng thường xuyên trong luật 
và các văn bản dưới luật dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Bên cạnh đó có nhiều 
thuật ngữ khác cũng có cách hiểu không thống nhất giữa các DNBH đã dẫn đến 
việc hạn chế khả năng lựa chọn của khách hàng[1]. Các DNBH đã từng thảo luận 
về việc thống nhất thuật ngữ, chứng tỏ đây là một nội dung hết sức quan trọng.[1] 
Luật kinh doanh bảo hiểm nên quy định cụ thể các thuật ngữ phổ biến nhằm đảm 
bảo việc áp dụng được thuận lợi hơn. Về nội dung này, xin được đề cập kỹ hơn 
trong một bài viết khác. 
Thứ ba, LKDBH chưa quy định hợp lý về việc chuyển nhượng hợp đồng 
bảo hiểm con người. Bản chất của việc chuyển nhượng hợp đồng là việc một chủ 
thể khác sẽ thay thế vị trí pháp lý của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng. Bên mua 
bảo hiểm có thể chuyển nhượng HĐBHNT cho người khác để tiếp tục duy trì hợp 
đồng hoặc để có một khoản tiền nhất định hoặc không muốn hợp đồng chấm dứt 
vì điều đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người thụ hưởng. Vấn đề này được 
LKDBH quy định tại Điều 26, nhưng thực tế điều khoản này chỉ đủ với hợp đồng 
bảo hiểm thiệt hại, khi mà bên mua bảo hiểm đồng thời là người được bảo hiểm 
(vào thời điểm mua bảo hiểm). Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, bên chuyển 
nhượng (bên mua bảo hiểm) có thể không phải là người được bảo hiểm. Do vậy, 
quá trình chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm con người có nhiều vấn đề nảy sinh 
cần pháp luật quy định. Ví dụ: điều kiện đối người nhận chuyển nhượng như thế 
nào, có cần có sự đồng ý của người được bảo hiểm hay không,v.v.. Những bổ sung 
này rất quan trọng nhằm tránh những tranh chấp có thể xảy ra sau khi hợp đồng 
được chuyển nhượng. Nếu không có quy định cụ thể, sẽ khó khăn khi xem xét 
trách nhiệm của DNBH trong việc chấp thuận việc chuyển nhượng của bên mua 
bảo hiểm. Trên thực tế, các DNBH đều thoả thuận với bên mua bảo hiểm về việc 
không chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của thoả thuận chuyển nhượng, từ đó 
dẫn đến tình trạng DNBH chấp nhận việc chuyển nhượng để tiếp tục thu phí, đến 
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra lại từ chối trả tiền bảo hiểm mà chỉ hoàn lại phí bảo 
hiểm vì hợp đồng không còn hiệu lực. 
Việc chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm, mặc dù theo nguyên tắc thoả 
thuận, phải có sự chấp thuận của DNBH, nhưng để đảm bảo quy định của pháp 
luật về bên mua bảo hiểm, nên cần sửa đổi, bổ sung Điều 26 theo hướng phải quy 
định cụ thể người nhận chuyển nhượng phải thoả mãn điều kiện là bên mua bảo 
hiểm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, vì việc chuyển nhượng hợp đồng 
bảo hiểm con người không làm thay đổi người được bảo hiểm, nên việc chuyển 
nhượng phải có sự đồng ý của chủ thể này. Nếu người được bảo hiểm không có 
năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì sự đồng ý của cha, mẹ hoặc người giám hộ hợp 
pháp khác là điều kiện để chuyển nhượng hợp đồng.[1] 
Thứ tư, khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm không thật sự hợp lý với 
bản chất của bảo hiểm con người. Theo quy định của LKDBH thì “quyền lợi có 
thể được bảo hiểm là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài 
sản; quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm”. 
Thực chất, quyền lợi có thể được bảo hiểm quy định như trên chỉ là những quyền 
lợi vật chất thuần tuý của bên mua bảo hiểm đối với đối tượng bảo hiểm. Trên 
thực tế, bảo hiểm con người không mang yếu tố bồi thường thiệt hại, mà là sự bù 
đắp tổn thất tính mạng, sức khoẻ của người được bảo hiểm đối với chính người 
này và người thân của họ (đồng thời có thể có yếu tố tiết kiệm như trong bảo hiểm 
nhân thọ chẳng hạn). Chính vì vậy, những lợi ích tinh thần cần phải được đánh giá 
đúng mức nhằm xác định quyền lợi có thể được bảo hiểm như quan hệ hôn phối, 
quan hệ ông bà với cháu, giữa chủ sử dụng lao động và người lao động v.v.., trong 
bảo hiểm con người.[1] 
Trong LKDBH, cũng đã có quy định cụ thể về việc bên mua bảo hiểm có 
thể mua bảo hiểm cho những ai. Nhà làm luật có dự liệu mở là bên mua bảo hiểm 
có thể mua bảo hiểm cho “người khác, nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể 
được bảo hiểm”, nhưng nếu căn cứ vào khái niệm quyền lợi có thể được bảo hiểm 
trong LKDBH, thì những đối tượng này bị bó hẹp rất nhiều. Điều đó tất yếu dẫn 
đến hai hệ quả: thứ nhất, làm hạn chế sự mở rộng hợp lý thị trường bảo hiểm con 
người; thứ hai, có thể DNBH sẽ cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho bên mua bảo 
hiểm không có quyền lợi có thể được bảo hiểm theo quy định của pháp luật tức là 
đã vi phạm pháp luật. Do vậy, cần phân tách rõ giữa quyền lợi có thể được bảo 
hiểm của bảo hiểm thiệt hại và bảo hiểm con người. Đối với hợp đồng bảo hiểm 
tài sản và hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự, quyền lợi có thể được bảo hiểm 
là quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản đối với đối tượng 
bảo hiểm. Đối với hợp đồng bảo hiểm con người, quyền lợi có thể được bảo hiểm 
là quyền, nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng và các quyền lợi khác đối với người 
được bảo hiểm, nếu được doanh nghiệp bảo hiểm chấp thuận hoặc pháp luật có 
quy định.[1] 
Thứ năm, LKDBH có những quy định mâu thuẫn liên quan đến hành vi lừa 
dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. Theo quy định tại Điều 19 LKDBH thì nếu 
một bên cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm thì 
bên kia có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng. Nếu bên mua bảo hiểm 
cung cấp thông tin sai sự thật thì DNBH có quyền thu phí bảo hiểm đến thời điểm 
đình chỉ hợp đồng. Ngược lại, nếu doanh nghiệp cung cấp thông tin sai sự thật mà 
gây thiệt hại cho bên mua bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có quyền đòi bồi 
thường. Việc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm về 
bản chất là hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên tại Điều 22 của 
LKDBH lại quy định nếu một bên có hành vi lừa dối thì hợp đồng vô hiệu và được 
xử lý theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định pháp luật liên quan. Theo 
quy định của Bộ luật dân sự, nếu hợp đồng vô hiệu thì các bên hoàn trả cho nhau 
những gì đã nhận, bên nào có lỗi thì phải bồi thường thiệt hại. Rõ ràng cùng một 
vấn đề đã có hai cách xử lý khác nhau cùng được quy định trong LKDBH. 
Về mặt lý luận, nếu có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng thì hợp đồng 
đó phải vô hiệu vì đã không tuân thủ nguyên tắc trung thực khi giao kết. Bộ luật 
dân sự năm 2005 quy định, nếu một bên bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Toà án 
tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong thời hạn một năm, kể từ ngày ký kết hợp đồng 
(Điều 142 và Điều 145). Vì vậy, việc cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết 
hợp đồng bảo hiểm không thể dẫn đến hành vi đình chỉ thực hiện hợp đồng. Chính 
vì vậy, đề nghị sửa đổi Điều 19 khoản 2 và khoản 3 theo hướng: bỏ khoản 3 Điều 
19 và sửa đổi khoản 2 Điều 19 điểm a bằng cách bỏ cụm từ “nhằm giao kết hợp 
đồng bảo hiểm”. Khi đó, Điều 19 khoản 2 chỉ áp dụng cho trường hợp bên mua 
bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ cung cấp cung cấp thông tin khi thực hiện hợp đồng, 
còn nếu các bên cung cấp thông tin sai sự thật để giao kết hợp đồng, sẽ áp dụng 
quy định tại Điều 22. 
 Thứ sáu, LKDBH không phân biệt sự thay đổi của yếu tố làm cơ sở 
xác định phí bảo hiểm là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan. [1] 
Tại khoản 2 Điều 20 LKDBH có quy định: “Khi có sự thay đổi những yếu 
tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì 
DNBH có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng bảo 
hiểm. Trong trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo hiểm thì 
DNBH có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải 
thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua bảo hiểm”. 
Quy định như vậy sẽ gây thiệt thòi cho bên mua bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. 
Thiết nghĩ, trong trường hợp có những yếu tố làm tăng mức độ rủi ro, cần thiết 
phải phân biệt là do nguyên nhân khách quan hay nguyên nhân chủ quan. Nếu 
mức độ rủi ro tăng lên do yếu tố chủ quan, ví dụ người được bảo hiểm tham gia 
những công việc có tính chất độc hại, nguy hiểm hoặc có nếp sinh hoạt ngày càng 
không điều độ, có ý thức trong việc gây giảm sút sức khoẻ chính mình v.v., thì 
DNBH có quyền tăng phí bảo hiểm. Ngược lại, nếu rủi ro tăng lên do nguyên nhân 
khách quan như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu v.v., DNBH không thể 
đương nhiên lấy đó là căn cứ tăng phí bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả thuận với 
bên mua bảo hiểm. Rõ ràng trong quan hệ bảo hiểm, tính không xác định chính là 
một trong những yếu tố của rủi ro, là động cơ để bên mua bảo hiểm giao kết hợp 
đồng. DNBH không thể vì quyền lợi của riêng mình mà tự ý tăng phí bảo hiểm 
hoặc đình chỉ hợp đồng khi nguyên nhân làm tăng yếu tố rủi ro là khách quan. Do 
vậy, điều 20 khoản 2 LKDBH nên quy định theo hướng: Khi có sự thay đổi những 
yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm mà nguyên nhân từ phía bên mua bảo hiểm 
hoặc người được bảo hiểm, dẫn đến tăng các rủi ro được bảo hiểm thì doanh 
nghiệp bảo hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại của hợp đồng 
bảo hiểm. Trong trường hợp này, bên mua bảo hiểm không chấp nhận tăng phí bảo 
hiểm thì doanh nghiệp bả