Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, những mối quan hệ bang giao giữa các
quốc gia được hình thành một cách khách quan. Thời gian đầu (Chế độ nhà
nước chiếm hữu nô lệ) Các mối quan hệ này chủ yếu mang tính khu vực, bó
hẹp trong phạm vi một số các quốc gia trong cùng khu vực địa lý nhất định.
Các quốc gia thúc đẩy mối quan hệ láng giềng thân thiện thông qua các sứ
giả, sứ thần đại diện cho nước mình hoặc cho nhà vua, thực hiện một số
chức năng nhiệm vụ nhất định như thương thuyết, thoả thuận những vấn đề
chiến tranh, hoà bình, thành lập liên minh, xúc tiến thương mại, thực hiện
các nhiệm vụ đặc biệt khác Một trong những nguyên tắc cổ điển của Luật
ngoại giao và lãnh sự được hình thành trong thời kỳ này là việc sứ giả, sứ
thần được hưởng quyền bất khả xâm phạm ở nước mà họ được cử tới.
Nguyên tắc đó được củng cố và phát triển cùng với sự phát triển của luật
ngoại giao và lãnh sự - một trong các ngành cổ điển nhất của Luật quốc tế,
đóng vai trò là nguyên tắc quan trọng trong ngành luật này.
Luật ngoại giao và lãnh sự thực sự phát triển mạnh mẽ khi ở châu Âu xuất
hiện các cơ quan đại diện ngoại giao thường trực ở nước ngoài (Thế kỷ XVI
- XVII). Cơ quan lãnh sự mặc dù ra đời sớm hơn cơ quan đại diện ngoại
giao (Thế kỷ thứ III T.C.N ở Hi Lạp cổ đại) nhưng chỉ tăng cường chức
năng của mình vào thời kỳ phong kiến ở Châu Âu.
33 trang |
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 636 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luật tài chính - Luật ngoại giao và lãnh sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luật Ngoại giao và lãnh sự
Cùng với sự xuất hiện của nhà nước, những mối quan hệ bang giao giữa các
quốc gia được hình thành một cách khách quan. Thời gian đầu (Chế độ nhà
nước chiếm hữu nô lệ) Các mối quan hệ này chủ yếu mang tính khu vực, bó
hẹp trong phạm vi một số các quốc gia trong cùng khu vực địa lý nhất định.
Các quốc gia thúc đẩy mối quan hệ láng giềng thân thiện thông qua các sứ
giả, sứ thần đại diện cho nước mình hoặc cho nhà vua, thực hiện một số
chức năng nhiệm vụ nhất định như thương thuyết, thoả thuận những vấn đề
chiến tranh, hoà bình, thành lập liên minh, xúc tiến thương mại, thực hiện
các nhiệm vụ đặc biệt khác Một trong những nguyên tắc cổ điển của Luật
ngoại giao và lãnh sự được hình thành trong thời kỳ này là việc sứ giả, sứ
thần được hưởng quyền bất khả xâm phạm ở nước mà họ được cử tới.
Nguyên tắc đó được củng cố và phát triển cùng với sự phát triển của luật
ngoại giao và lãnh sự - một trong các ngành cổ điển nhất của Luật quốc tế,
đóng vai trò là nguyên tắc quan trọng trong ngành luật này.
Luật ngoại giao và lãnh sự thực sự phát triển mạnh mẽ khi ở châu Âu xuất
hiện các cơ quan đại diện ngoại giao thường trực ở nước ngoài (Thế kỷ XVI
- XVII). Cơ quan lãnh sự mặc dù ra đời sớm hơn cơ quan đại diện ngoại
giao (Thế kỷ thứ III T.C.N ở Hi Lạp cổ đại) nhưng chỉ tăng cường chức
năng của mình vào thời kỳ phong kiến ở Châu Âu.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập, quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các
quốc gia ngày càng phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển quan hệ
ngoại giao và lãnh sự chính là sự phát triển của hệ thống pháp luật điều
chỉnh quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các nước như các điều ước quốc tế
song phương và đa phương giữa các quốc gia, các tập quán quốc tế ngày
càng được hình thành và củng cố, pháp luật của các quốc gia điều chỉnh vấn
đề quan hệ ngoại giao lãnh sự
I. Khái niệm, các nguyên tắc của luật ngoại giao và lãnh sự
1. Khái niệm
Hoạt động ngoại giao, theo nghĩa chung nhất là hoạt động của các cơ quan
và những người đại diện của nhà nước dưới các hình thức quan hệ chính
thức với nước ngoài như tiến hành đàm phán, trao đổi văn kiện ngoại giao,
ký kết các điều ước quốc tế, tham gia các tổ chức quốc tế hay hội nghị quốc
tế, đặt các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài để thực hiện mục
đích, yêu cầu của chính sách đối ngoại của nhà nước1.
Để điều chỉnh các mối quan hệ ngoại giao này, các quốc gia phải áp dụng
các quy phạm của luật ngoại giao và lãnh sự đã được hình thành và phát
triển cùng với sự phát triển của các mối quan hệ quốc tế
Luật ngoại giao và lãnh sự là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp
luật quốc tế, bao gồm tổng thể các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc
tế điều chỉnh quan hệ về tổ chức và hoạt động của các cơ quan quan hệ đối
ngoại nhà nước cùng các thành viên của các cơ quan này, đồng thời cũng
điều chỉnh các vấn đề về quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quốc tế liên
Chính phủ cùng thành viên của nó.
Đối tượng điều chỉnh của luật Ngoại giao và lãnh sự là các quan hệ về:
- Tổ chức và hoạt động của các cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước
cùng thành viên của nó;
- Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các cơ quan quan hệ đối ngoại
của các quốc gia và các nhân viên của cơ quan đó;
- Hoạt động của các phái đoàn đại diện của các quốc gia trong quá trình
viếng thăm hoặc tham dự hội nghị quốc tế;
1 Đề cương giáo trình Luật Quốc tế - Bộ môn Luật - Học viện quan hệ quốc tế
- Hoạt động của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các quyền ưu đãi,
miễn trừ dành cho các tổ chức này cũng như các thành viên của tổ chức tại
lãnh thổ của các quốc gia.
2. Các nguyên tắc của luật Ngoại giao và lãnh sự
Bên cạnh các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế chi phối toàn bộ các quan
hệ trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế thì mỗi ngành luật lại có hệ
thống các nguyên tắc đặc thù của mình. Trong quan hệ ngoại giao lãnh sự,
các quốc gia cũng phải tuân thủ các nguyên tắc đặc thù của luật ngoại giao
và lãnh sự.
a. Nguyên tắc Bình đẳng, không phân biệt đối xử
Xuất phát từ nguyên tắc Bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền, quan hệ
ngoại giao và lãnh sự là quan hệ bình đẳng trên cơ sở chủ quyền. Sự bình
đẳng này thể hiện ở chỗ không cho phép có bất cứ sự phân biệt đối xử nào
giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội và vị trí địa lý, kinh tế, chính trị
khác nhau. Đối xử trọng thị và bình đẳng là đặc thù của loại hình quan hệ
hợp tác về ngoại giao và lãnh sự.
Cơ sở pháp lý: Điều 47 Công ước Viên năm 1961 về quan hệ ngoại giao:
“Trong khi thi hành những điều khoản của Công ước này, nước nhận dại
diện không được có sự phân biệt đối xử giữa các nước”. Tuy nhiên, Điểm b
Khoản 2 của Điều này cũng chỉ rõ rằng việc các nước cho nhau hưởng theo
tập quán hoặc theo sự thoả thuận với nhau một sự đối xử thuận lợi những
điều kiện trong Công ước thì cũng không bị coi là phân biệt đối xử.
b. Nguyên tắc thoả thuận
Thoả thuận là nguyên tắc được áp dụng triệt để nhất trong quan hệ ngoại
giao lãnh sự. Các hoạt động thiết lập quan hệ ngoại giao, quan hệ lãnh sự và
cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, bổ nhiệm người đứng đầu các
cơ quan này giữa nước cử đại diện và nước nhận đại diện đều phải thông
qua quá trình trao đổi thoả thuận để đi đến quyết định cuối cùng.
Cơ sở pháp lý: Điều 2, Điều 4 Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao;
Điều 2, Khoản 1 Điều 4, Điều 10 Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự.
c. Nguyên tắc tôn trọng quyền ưu đãi và miễn trừ của cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự và thành viên của các cơ quan này.
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền miễn trừ của các quốc gia, trong
quan hệ ngoại giao và lãnh sự, nước nhận đại diện và tiếp nhận lãnh sự phải
tôn trọng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao của cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự. Các quyền ưu đãi và miễn trừ này xuất phát từ chủ
quyền quốc gia, được pháp luật quốc tế ghi nhận và đảm bảo thực hiện.
Quốc gia sở tại phải đối xử trọng thị với viên chức ngoại giao và viên chức
lãnh sự, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp
luật quốc tế để cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự được hưởng
đầy đủ quyền ưu đãi và miễn trừ trong khi thực hiện chức năng mà nhà
nước giao.
d. Nguyên tắc tôn trọng pháp luật và phong tục tập quán của nước sở
tại.
Hoạt động của các cơ quan và thành viên các cơ quan quan hệ đối ngoại của
nhà nước phải luôn phù hợp với luật pháp quốc tế, với pháp luật nước mình
và tôn trọng pháp luật cũng như phong tục, tập quán của nước sở tại. Tôn
trọng pháp luật, phong tục tập quán của nước sở tại là hành vi biểu hiện sự
tôn trọng chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế, đồng thời là việc làm
để xây dựng phát triển quan hệ hữu hảo giữa các quốc gia hữu quan.
e. Nguyên tắc có đi có lại
Nguyên tắc có đi có lại là nguyên tắc mang tính tập quán và truyền thống
trong quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Nguyên tắc có đi có lại được xây dựng
dựa trên nền tảng là nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ ngoại giao và lãnh
sự.
Nội dung của nguyên tắc:
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, thành viên của các cơ
quan này được hưởng chế độ pháp lý và đối xử như nhau, không cho phép
một bên đòi hỏi cơ quan và thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ
quan lãnh sự của mình được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ nhiều hơn
những gì mình đã, đang và sẽ dành cho bên kia.
- Các quốc gia có thể áp dụng biện pháp trả đũa trong trường hợp nước
nhận đại diện có hành vi làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín hoặc làm thiệt
hại đến lợi ích của nước cử đại diện. Ví dụ: cắt đứt quan hệ ngoại giao,
tuyên bố bất tín nhiệm đối với trưởng đoàn ngoại giao
Cơ sở pháp lý: Điểm a, Khoản 2 Điều 47 Công ước Viên 1961 quy định
“Việc nước nhận đại diện áp dụng hạn chế một số điều khoản của Công ước
vì lý do điều khoản ấy cũng đã áp dụng như vậy đối với đoàn của nước đó
tại nước cử đại diện” thì không bị coi là phân biệt đối xử.
3. Nguồn luật điều chỉnh
Quan hệ ngoại giao và lãnh sự là mối quan hệ ra đời sớm nhất giữa các quốc
gia. Chính vì vậy, nguồn luật điều chỉnh các quan hệ ngoại giao, lãnh sự rất
đa dạng, bao gồm đầy đủ cả các Điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế và
cả pháp luật của mỗi quốc gia.
a. Điều ước quốc tế
Các điều ước quốc tế đa phương
- Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao, có hiệu lực năm 1964 (Việt
Nam tham gia năm 1990)
- Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự, có hiệu lực năm 1967 (Việt
Nam tham gia năm 1992)
- Công ước 1946 về quyền ưu đãi và miễn trừ của Liên Hợp Quốc
- Công ước năm 1947 về quyền ưu đãi miễn trừ của các tổ chức chuyên
môn của Liên Hợp Quốc
- Công ước Viên năm 1975 về cơ quan đại diện của các quốc gia tại các
tổ chức quốc tế phổ cập
- Công ước năm 1977 về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại
các cá nhân được hưởng sự bảo hộ quốc tế
- Công ước năm 1980 về quy chế pháp lý, các quyền ưu đãi và miễn trừ
của các tổ chức quốc tế liên chính phủ.
Trong số những điều ước trên Công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao
và Công ước Viên 1963 về quan hệ lãnh sự là quan trọng hơn cả. Đây là hai
Công ước đề cập đến các nội dung cơ bản nhất trong mối quan hệ ngoại
giao, lãnh sự giữa các quốc gia như: Chức năng của cơ quan đại diện ngoại
giao, cơ quan lãnh sự, cơ sở pháp lý của việc thiết lập quan hệ ngoại giao,
lãnh sự, trình tự bổ nhiệm cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, các
quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho các cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan
lãnh sự và thành viên của các cơ quan này Đây là những Công ước có
tính khái quát cao, được các quốc gia thừa nhận rộng rãi.
Các điều ước quốc tế song phương
Ngoài các điều ước quốc tế đa phương, các điều ước quốc tế song phương
có vai trò rất quan trọng trong việc điều chỉnh mối quan hệ ngoại giao, lãnh
sự giữa các quốc gia. Thông thường, đó là các điều ước về thoả thuận thiết
lập quan hệ ngoại giao và lãnh sự giữa các quốc gia như: Các hiệp định về
việc thiết lập quan hệ ngoại giao, đặt trụ sở của cơ quan đại diện ngoại
giao
b. Tập quán quốc tế
Trong một thời gian dài từ khi hình thành và phát triển mối quan hệ ngoại
giao và lãnh sự giữa các quốc gia, nguồn luật chủ yếu điều chỉnh mối quan
hệ này là các tập quán quốc tế được các quốc gia thừa nhận chung. Cho đến
thế kỷ thứ 19 mới có một điều ước quốc tế có tính chất chung là Nghị định
thư năm 1815, sửa đổi bổ sung năm 1818 quy định về hàm của đại diện
ngoại giao.
Ngày nay, các tập quán quốc tế vẫn có vai trò quan trọng trong việc điều
chỉnh mối quan hệ ngoại giao lãnh sự giữa các quốc gia. Một số tập quán
cũng đã được pháp điển hoá. Ví dụ: Việc quy định các quyền ưu đãi và
miễn trừ dành cho các thành viên của cơ quan đại diện ngoại giao và cơ
quan lãnh sự trong Công ước Viên 1961 và 1963 là kết quả của việc pháp
điển hoá tập quán sứ giả, sứ thần được hưởng quyền bất khả xâm phạm ở
nước mà họ được cử tới.
Trong phần lời nói đầu của Công ước Viên 1961 và Công ước Viên 1963
cũng khẳng định vai trò không thể thiếu của các tập quán quốc tế trong việc
điều chỉnh những vấn đề chưa được giải quyết một cách hoàn chỉnh trong
các điều khoản của Công ước.
c. Pháp luật quốc gia
Ngoài các điều ước quốc tế song phương và đa phương, các tập quán quốc
tế được thừa nhận rộng rãi chung thì mỗi quốc gia đều ban hành các văn bản
pháp lý liên quan đến chính sách đối ngoại, các quan hệ ngoại giao lãnh sự
của quốc gia mình với các nước. Nội dung của các văn bản pháp luật quốc
gia liên quan đến điều này thường bao gồm:
- Các nguyên tắc cơ bản trong chính sách đối ngoại
- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng
ngoại giao, lãnh sự.
- Tổ chức, hoạt động của cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự
của nước mình ở nước ngoài
- Việc thực hiện các điều ước quốc tế về quan hệ ngoại giao, lãnh sự
-
II. Hệ thống các cơ quan quan hệ đối ngoại
1. Khái niệm
Cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước là cơ quan do nhà nước lập ra để
duy trì mối quan hệ chính thức của nhà nước đó với các quốc gia khác, với
các tổ chức quốc tế hoặc với các chủ thể khác của luật quốc tế. Hệ thống cơ
quan quan hệ đối ngoại, phạm vi chức năng, quyền hạn của các cơ quan này
trong lĩnh vực quan hệ đối ngoại do luật quốc tế và pháp luật của từng nước
quy định.
2. Phân loại
Hình thức tổ chức, tính chất hoạt động của cơ quan quan hệ đối ngoại ở mỗi
nước phụ thuộc vào chế độ kinh tế, chính trị, và đặc điểm lịch sử của nước
đó. Nhưng xét về phạm vi hoạt động thì có thể chia cơ quan quan hệ đối
ngoại của nhà nước ra làm hai loại:
- Cơ quan quan hệ đối ngoại ở trong nước
- Cơ quan quan hệ đối ngoại ở nước ngoài
a. Cơ quan quan hệ đối ngoại ở trong nước
Dựa vào cơ sở pháp lý, tính chất, chức năng có thể chia cơ quan quan hệ đối
ngoại ở trong nước ra làm hai bộ phận là cơ quan đại diện chung và cơ quan
đại diện chuyên ngành.
Cơ quan đại diện chung: là các cơ quan có tính
chất chính trị chung, hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, bao
gồm: Quốc hội (Nghị viện), Nguyên thủ quốc gia, Chính phủ và người đứng
đầu chính phủ, Bộ ngoại giao và bộ trưởng bộ ngoại giao.
- Quốc hội: Nói chung, quốc hội (nghị viện) có vai trò quan trọng trong
công tác đối ngoại ở mỗi nước. Theo hiến pháp của nhiều nước, quốc hội có
quyền vạch ra đường lối, chính sách đối ngoại của nhà nước, giải quyết các
vấn đề chiến tranh, hoà bình, ra các tuyên bố về vấn đề quốc tế quan trọng,
phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế, kiểm soát các hoạt động của
chính phủ về công tác đối ngoại dưới hình thức thông qua các báo cáo của
chính phủ... Tuy nhiên, ở các nước có chế độ chính trị, kinh tế khác nhau,
địa vị pháp lý và vai trò thực tế của quốc hội về mặt đối ngoại là không
giống nhau, ví dụ: ở các nước theo chế độ cộng hoà tổng thống, quyền hạn
của tổng thống thường rất lớn, do đó, nghị viện trên thực tế không lãnh đạo
chung về chính sách đối ngoại. Ở nước ta, Quốc hội là cơ quan quyền lực
cao nhất, quyết định các chính sách cơ bản về đối ngoại như: phê chuẩn
hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế theo đề nghị của Chủ tịch nước, quyết định các
vấn đề chiến tranh, hoà bình, quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp
đặc biệt khác để đảm bảo quốc phòng, an ninh quốc gia, ban hành các quy
định về hàm, cấp ngoại giao... (Điều 83, 84 Hiến pháp).
- Nguyên thủ quốc gia: Về mặt đối ngoại, nguyên thủ quốc gia là cơ
quan quan hệ đối ngoại và là đại diện cao nhất của nhà nước theo thực tiễn
phổ biến của các nước hiện nay. Thông thường, hiến pháp các nước quy
định chức năng và quyền hạn của nguyên thủ quốc gia về mặt đối ngoại như
sau: Tuyên bố tình trạng chiến tranh, đình chiến, ký hoà ước, tuyên bố phê
chuẩn, bãi bỏ các điều ước quốc tế, bổ nhiệm và triệu hồi các đại diện ngoại
giao của nước mình, tiếp nhận các đại diện ngoại giao của nước ngoài được
cử đến nước mình...
Ở nước ta, theo quy định của Hiến pháp, Chủ tịch nước là người đứng đầu
nhà nước, thay mặt cho nhà nước về mặt đối nội và đối ngoại, công bố
quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, quyết định phong hàm, cấp ngoại
giao, cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam, tiếp nhận đại
sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài, tiến hành đàm phán, ký kết điều
ước quốc tế nhân danh nhà nước, quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều
ước quốc tế, trừ trường hợp cần trình quốc hội quyết định. (Điều 101, 103)
Chính phủ: Về mặt đối ngoại, chính phủ có nhiệm vụ lãnh đạo thực
hiện chính sách đối ngoại của nhà nước. Hình thức hoạt động đối ngoại
thông thường của chính phủ là cử và tiếp nhận các phái đoàn chính phủ,
đàm phán và ký kết các hiệp định và ra các tuyên bố chung với chính phủ
các nước khác, trao đổi công hàm, thông điệp với chính phủ nước ngoài về
các vấn đề quan hệ quốc tế.
Ở nước ta, Chính phủ có nhiệm vụ thống nhất quản lý công tác đối ngoại
của nhà nước, ký kết, tham gia, phê duyệt điều ước quốc tế nhân danh chính
phủ, chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc
tham gia, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích chính đáng của tổ chức và
công dân Việt Nam ở nước ngoài. (Điều 112 - Hiến pháp 1992)
Người đứng đầu chính phủ: có quyền đại diện cho chính phủ trong
các quan hệ đối ngoại thuộc phạm vi quyền hạn của mình và có quyền tiến
hành hoạt động hàng ngày về mặt đối ngoại. Người đứng đầu chính phủ có
quyền tham gia đàm phán với chính phủ các nước ở trong và ngoài nước, dự
các hội nghị quốc tế, các phiên họp của các tổ chức quốc tế mà không cần
có thư uỷ nhiệm.
Khi ra nước ngoài, người đứng đầu chính phủ hoặc các phái đoàn chính phủ
được hưởng các chế độ ưu đãi, miễn trừ ngoại giao.
- Bộ Ngoại giao: Bộ ngoại giao là cơ quan quan hệ đối ngoại thuộc chính
phủ, chuyên trách thực hiện chính sách và công tác đối ngoại của nhà nước,
trực tiếp tổ chức và chỉ đạo thực hiện các hoạt động ngoại giao của nhà
nước.
Nhiệm vụ và quyền hạn của bộ ngoại giao của mỗi nước chủ yếu được xây
dựng trên cơ sở đường lối chính sách đối ngoại của từng nước, trên cơ sở
những nguyên tắc tổ chức bộ máy chính quyền của mỗi nước.
Ở nước ta, Theo Nghị định 82/CP ngày 10/11/1993 của Chính phủ, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức của bộ Ngoại giao được quy định như sau: “Bộ
Ngoại giao là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về lĩnh vực công tác ngoại giao nhằm bảo vệ chủ quyền và lợi ích của pháp
nhân và công dân Việt Nam; mở rộng quan hệ hữu nghị hợp tác cùng có lợi
với các nước; nâng cao vị trí quốc tế của nước CHXHCN Việt Nam; góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.”
Nghị định cũng quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể của bộ Ngoại
giao phù hợp với các chức năng chung nêu trên.
- Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: là thành viên của chính phủ, chịu trách
nhiệm về công tác ngoại giao của chính phủ. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao có
quyền ra chỉ thị và quyết định các công việc của Bộ Ngoại giao. Bộ trưởng
Bộ Ngoại giao có thể tiến hành đàm phán với các đại diện ngoại giao ở
nước ngoài, thay mặt chính phủ mình tham dự các hội nghị quốc tế hoặc
khoá họp các điều ước mà không cần có thư uỷ nhiệm
Khi ra nước ngoài, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao được hưởng các chế độ ưu đãi
và miễn trừ ngoại giao.
Cơ quan đại diện chuyên ngành: là các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, các Uỷ ban nhà nước trong các lĩnh vực chuyên môn tham
gia vào quan hệ đối ngoại trong từng lĩnh vực nhất định, phù hợp với chức
năng của mình.
Ngày nay, ở các nước, xu hướng mở rộng các mối quan hệ liên quốc gia tạo
điều kiện để tất cả các bộ, cơ quan ngang bộ, các uỷ ban nhà nước đều tham
gia vào quan hệ đối ngoại với tư cách là cơ quan chuyên ngành. Giữa các bộ
chuyên ngành của các nước đều có quan hệ hợp tác trực tiếp với nhau,
thông qua những thoả thuận song phương... Trong các cơ quan chuyên
ngành, Bộ ngoại thương, Uỷ ban hợp tác kinh tế của các quốc gia là tham
gia tích cực nhất vào quan hệ đối ngoại.
b. Cơ quan quan hệ đối ngoại ở nước ngoài.
Cơ quan quan hệ đối ngoại của nhà nước được chia ra làm 2 loại:
Cơ quan quan hệ đối ngoại thường trực ở nước
ngoài cơ quan do nhà nước thành lập ở nước ngoài, có trụ sở cố định, cán
bộ, nhân viên được bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, được giao giữa một công việc
xác định để thực hiện các hoạt động của nhà nước, bao gồm:
- Cơ quan đại diện ngoại giao
- Cơ quan lãnh sự
- Phái đoàn đại diện ngoại giao ở các tổ chức quốc tế
Cơ quan lâm thời
Cơ quan quan hệ đối ngoại lâm thời là những cơ quan thực hiện hoạt động
đối ngoại theo từng công vụ nhất định, có thành phần không cố định và tự
giải tán sau khi hoàn thành công vụ. Ví dụ: các phái đoàn của Chính phủ, do
Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dẫn đầu được phái ra
nước ngoài để thăm viếng, đàm phán với chính phủ các nước khác, dự hội
nghị quốc tế h