Lưu hiệp bàn về một số thủ pháp sáng tác thơ trong “Văn tâm điêu long”

TÓM TẮT Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp là một tác phẩm có giá trị. Những bàn luận trong Tác phẩm bao quát nhiều vấn đề từ lý thuyết đến hoạt động sáng tác. Tác giả vừa đề cao tinh thần “trưng thánh”, “tôn kinh” vừa chú trọng vai trò và tác dụng của hình thức tác phẩm nghệ thuật. Xưa nay, người ta quan tâm đến những tư tưởng lý luận của ông hơn là đi vào khám phá những luận bàn của tác giả về thủ pháp nghệ thuật. Bài viết tìm hiểu tinh thần kế thừa và cách tân của Lưu Hiệp trong việc xác định các thủ pháp nghệ thuật căn cơ nhất trong sáng tạo nghệ thuật từ công đoạn hình thành ý tứ, thủ pháp tạo nhạc tính, thủ pháp tạo biện pháp tu từ, thủ pháp gọt giũa ngôn từ.

pdf10 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 521 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lưu hiệp bàn về một số thủ pháp sáng tác thơ trong “Văn tâm điêu long”, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY Số 67 (01/2020) No. 67 (01/2020) Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website: 41 LƯU HIỆP BÀN VỀ MỘT SỐ THỦ PHÁP SÁNG TÁC THƠ TRONG “VĂN TÂM ĐIÊU LONG” Luu Hiep’s discussions on some poetic techniques in “Van tam dieu long” ThS.NCS. Trần Thanh Bình Trường Trung học Thực hành Sài Gòn, Đại học Sài Gòn TÓM TẮT Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp là một tác phẩm có giá trị. Những bàn luận trong Tác phẩm bao quát nhiều vấn đề từ lý thuyết đến hoạt động sáng tác. Tác giả vừa đề cao tinh thần “trưng thánh”, “tôn kinh” vừa chú trọng vai trò và tác dụng của hình thức tác phẩm nghệ thuật. Xưa nay, người ta quan tâm đến những tư tưởng lý luận của ông hơn là đi vào khám phá những luận bàn của tác giả về thủ pháp nghệ thuật. Bài viết tìm hiểu tinh thần kế thừa và cách tân của Lưu Hiệp trong việc xác định các thủ pháp nghệ thuật căn cơ nhất trong sáng tạo nghệ thuật từ công đoạn hình thành ý tứ, thủ pháp tạo nhạc tính, thủ pháp tạo biện pháp tu từ, thủ pháp gọt giũa ngôn từ. Từ khóa: Lưu Hiệp, thủ pháp, Văn tâm điêu long ABSTRACT Luu Hiep's Van tam dieu long is a valuable work. Discussions in the work cover many issues from theory to writing activities. The author has not only emphasized the spirit of “sacred” or “respected scriptures”, but also focused on the role and effect of art forms. From the past until now, people have been more interested in his theoretical ideas than discovering the author's discussions on art tactics. This paper explores Luu Hiep's inheritance and renewal in determining the most basic art tactics in artistic creation from thought formation, music creation techniques, rhetoric measures, language editing techniques. Keywords: Luu Hiep, tactics, Van tam dieu long 1. Đặt vấn đề Đời sống văn học bắt đầu từ hoạt động sáng tác của tác giả và kéo dài đến suốt quá trình tiếp nhận không giới hạn không - thời gian của độc giả. Trên tinh thần tiếp thu tinh hoa tư tưởng nhân loại, đến nay, diện mạo nền lý luận văn học nước ta đã tương đối hoàn chỉnh nhưng vẫn không ngừng hoàn thiện trong mục đích nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sát nhất những khía cạnh của văn học. Riêng bàn về kỹ thuật sáng tác, không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp đối với lý luận Việt Nam. Giá trị khai sáng của nó được xem là kho báu chốn văn uyển, nên những “kẻ sĩ muốn trau chuốt văn chương, chưa ai có thể xa rời nó mà đi tìm lối dẫn dắt khác để đến đích được” (Phương Lựu, 2005, tr. 51). Bên cạnh nhiều vấn đề bao quát từ lý Email: wmthanhbinh2015@gmail.com SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 42 thuyết văn học đến hoạt động sáng tác văn chương, Lưu Hiệp đã chú tâm dành một phần lớn (gần 20 thiên) bàn về những công đoạn quan trọng để tạo nên những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Vì vậy, sau khi tổng thuật bao quát các giá trị của Văn tâm điêu long, Đoàn Lê Giang đã khẳng định: “Có một vài thiên chuyên bàn về cấu tứ, tu dưỡng trong sáng tác và kỹ xảo viết văn. Đó là điều rất đáng chú ý” (Đoàn Lê Giang, 2001, tr.48). Phải chăng đánh giá này của ông chính là sự gặp gỡ tiền nhân trong mối quan tâm đến công việc sáng tác của người cầm bút? Đương thời, những kiến giải về thủ pháp nghệ thuật của Lưu Hiệp đã soi rõ cho giới văn sĩ; và về sau, những ý kiến đó đã định hướng cho giới nghiên cứu, phê bình trong nước và trên thế giới trong việc thẩm định tài năng của tác giả và giá trị của tác phẩm. Do vậy, chuyện “cấu tứ, tu dưỡng trong sáng tác và kỹ xảo viết văn” trong Văn tâm điêu long là một vốn kiến thức và kinh nghiệm quý giá cần được tiếp cận kỹ hơn. 2. Nội dung 2.1. Tiền đề sáng tạo – tố chất của người cầm bút Để có thể cho ra đời một kiệt tác, nhà văn phải trải qua một quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc. Điều đó đòi hỏi bản thân người sáng tác phải hội tụ những tố chất đặc biệt cần có của người sáng tạo nghệ thuật. Trong tác phẩm đồ sộ bao quát mọi kiến văn về văn học nghệ thuật, Lưu Hiệp dành mối quan tâm sâu sắc về những vấn đề có liên quan đến tác giả. Thiên Minh thi khẳng định khởi nguồn thơ là ở con người, “tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi”; “chữ thi (thơ) đồng âm với chữ trì (giữ), nên “thơ gìn giữ tính tình con người” (Lưu Hiệp, 2007, tr.92). Vậy nên, chính chí và tình của người góp phần không nhỏ để thành thơ. Tiếp theo, thiên Thể tính khẳng định phong cách văn chương được quyết định bởi bốn yếu tố: tài, khí, (khí chất) và học, tập (tập tính). Nếu tài, đức, học vấn là yêu cầu chung cho con người, thì ở người sáng tác văn chương lại càng phải đặc sắc. Vì các yếu tố này tạo nên nét độc đáo trong cá tính sáng tạo của nhà văn. Vốn “thiên bẩm” (còn gọi là “tiên thiên”) chính là tài và khí chất là yếu tố quan trọng, tiên quyết, tạo nên nét độc đáo trong bút lực. Hai yếu tố bẩm sinh này hình thành và hiện hữu từ trong máu thịt, biểu hiện trong từng suy nghĩ, cảm nhận và cách sáng tác của nhà văn. Vì vậy, Lưu Hiệp nhắc nhở nhà văn phải biết dưỡng khí để sáng tác. “Sáng tạo văn chương cốt phải điều hòa, phải làm cho cái tâm yên bình trong sáng, cái khí thông thuận tự nhiên, phiền lụy phải gạt bỏ, không để ứ tắc trong lòng, ý tứ đến phải cầm bút viết ngay, ý tứ tiềm phục không ra, thì ném bút nghỉ ngơi khỏi nghĩ tiếp” (Lưu Hiệp, 2007, tr.467). Thi nhân phải trọng sự tu dưỡng này, vì “lúc thư nhàn bồi dưỡng tài năng” thì “lúc sáng tác phải dư tinh lực”. Trạng thái tinh thần của thi nhân thông suốt hay ngưng trệ đều có ảnh hưởng đến việc sáng tác và chính tâm tình, khí chất của người viết thật sự góp phần tạo nên phần hồn của thi ca. Để thành công, thi nhân phải qua quá trình đào luyện là học tập (còn gọi là “hậu thiên”). Vì thơ khởi phát từ trong lòng mà ra, nên khi nhà thơ phải thật sự có rung cảm mãnh liệt thì tác phẩm mới tượng hình. Tiền đề đó tạo nên nguồn cảm hứng để thi nhân cầm bút cho ngôn ngữ đơm hoa kết trái, kiến tạo nên hồn của tác phẩm. Ngược lại, nếu sự học cạn, bút không TRẦN THANH BÌNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 43 thông, văn không thành hình hoặc dĩ nếu có thì sẽ thành sáo ngữ, ý nông, thiếu dư vị. Lưu Hiệp rất đề cao việc học: “văn chương do học, năng tại thiên tư”. Sự rèn luyện, học tập để nâng cao hiểu biết, bồi dưỡng năng lực của người viết rất quan trọng, là việc “nhân bản tính mà rèn luyện tài năng” (nhân tính dĩ luyện tài). Ông lý giải rằng việc học tập của thi nhân sẽ đem đến cho họ kiến văn rộng rãi về mọi lĩnh vực, làm cho kỹ năng, kỹ xảo về nghề văn của họ thuần thạo hơn. Khi có “học”, thi nhân có thể tổng hợp học vấn để bao quát tầm nhìn, có thể giản ước sự việc để gọt luyện cho tinh. Tào Phi trong Điển văn - Luận văn từng bàn về mối quan hệ giữa tác gia và phong cách tác phẩm: “Khí của tác gia là yếu tố quyết định cái đặc sắc trong phong cách tác phẩm” (Lưu Hiệp, 2007, tr.467). Nhận định này tôn tài khí của người sáng tác lên hàng đầu, trở thành yếu tố tiên quyết cho giá trị độc đáo của tác phẩm. So với quan niệm của Tào Phi, quan niệm của Lưu Hiệp rõ ràng là toàn diện hơn khi ông không chỉ “nhấn mạnh tác dụng của tài, khí” mà còn đề cao việc “học tập” của thi nhân. “Tài phát ra từ trong, học thu được từ ngoài” (“tài tự nội phát, học dĩ ngoại thành”), công việc sáng tác đòi hỏi thi nhân phải “làm sao cho học vấn bên ngoài và tài năng bên trong đều có thể phát huy” (Lưu Hiệp, 2007, tr.467). Như vậy, “tiên thiên” là điều kiện cần, “hậu thiên” là điều kiện đủ để hình thành năng lực sáng tạo. Những tố chất đó khi đủ điều kiện hội tụ và nhu cầu sáng tác phát khởi, nhà thơ sẽ làm nên tác phẩm văn chương. Quan niệm này rất sâu sắc và đúng đắn, nhất là nó ra đời trong sự và tiếp thu, kế thừa tư tưởng của Nho giáo, đi đến khẳng định tính hiện thực và giá trị thẩm mỹ của một tác phẩm văn học. Vì vậy, nó vẫn còn giá trị bền vững trong thời hiện đại. 2.2. Quá trình sáng tác của thi nhân 2.2.1. Hình thành ý tứ Khâu quan trọng trong sáng tác là có hứng khởi. Lối đi không rõ, văn viết không thông, đường đi không định, văn sẽ lúng túng. Hoạt động này được Lưu Hiệp đề cập đến trong chương Thần tứ. Tìm cấu tứ cho tác phẩm có ý nghĩa quyết định đến hành trình sáng tác sau đó. Chỉ cần “văn tứ đến nhanh thì thành công chóng vánh; hoài nghi, nghiền ngẫm thì thành tựu đến lâu”. Thứ nhất, tìm cấu tứ cho tác phẩm đòi hỏi người viết phải bắt đầu từ tâm. Người viết phải để tâm hư và tĩnh. Trạng thái hư và tĩnh là trong suốt, trống rỗng nhưng lại có thể tinh thông ứng chứa mọi vận hành của càn khôn (hư năng dung vật, tĩnh năng quan vật). Lưu Hiệp gọi đó là “ngưng thần” để nảy ra thi hứng, tứ thơ. Khi đó, thi nhân “lặng lẽ tập trung suy nghĩ, dòng tư duy có thể tiếp xúc tận ngàn năm, khi đổi thay nét mặt ngắm nhìn, thì ánh mắt như thấy được vạn dặm. Ngâm vịnh lên, âm thanh như nhả ngọc phun châu, tưởng tượng nhìn trước mắt như sắc màu mây gió” – (“Cố tịch nhiên ngưng lự, tư tiếp thiên tải. Tiễu yên động dung, thị thông vạn lý, ngâm vịnh chi gian, thổ nạp châu ngọc chi thanh; mi tiệp chi tiền, quyển thư phong vân chi sắc”). Chuỗi hoạt động phức tạp và vi diệu đó chính là yêu cầu đầu tiên để tìm tứ cho thơ. Thao tác tìm tứ cho thơ, theo Lưu Hiệp thì dù có đề cao tính tưởng tượng, “dòng tư duy có thể tiếp xúc tận ngàn năm” nhưng cơ sở để tìm tứ không thoát ra khỏi “vật”. Vật là ngoại cảnh. Ngoại cảnh tác động đến cảm hứng của thi nhân, khiến thi nhân tập trung vào việc tìm SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 44 ý tứ cho thơ. Bởi vậy, khi cấu tứ khéo là tinh thần và ngoại vật đều giao du (thần dữ vật du). Ngoại vật đến từ tai mắt, tình ý khởi từ bên trong tâm hồn, nhưng ngôn từ mới là nơi diễn đạt. Như vậy, Lưu Hiệp quan tâm tới ba yếu tố “thần – vật – ngôn” trong quá trình tạo dựng văn tứ. Quan niệm thần tứ trong Văn tâm điêu long còn cho thấy sự ảnh hưởng tích cực của Lưu Hiệp từ Phật giáo và Đạo giáo. Trạng thái “ngưng thần”, “hư”, “tĩnh” trong hoạt động tìm tứ của ông rất gần với trạng thái vô vi của Lão Trang hay trạng thái “chánh niệm” của Phật giáo. Tuy nhiên, không phải cứ đạt đến độ “ngưng ư thần” là có tứ. Tìm cấu tứ cũng đòi hỏi lực học tinh thông của người sáng tác. Học cạn, tài sơ sẽ uổng phí công sức mà không thể tạo nên tác phẩm có giá trị. Vốn học rộng sẽ giúp người viết có khả năng nghiền ngẫm để tìm văn tứ; vốn học nông khiến việc tìm tứ trở nên khó khăn, suy tư tắc ý, ngôn từ tạp loạn. Khi tìm tứ là khi thi nhân trải nghiệm, quan sát kỹ càng sự vật, chuồi theo suy tư, vận dụng ngôn từ bày ra thành chữ viết. Khi đó, cái hồn cái tình đã thấu đã sâu sẽ tìm được thanh luật mà thành thơ. Như vậy, tứ thơ không tự nhiên mà có, tứ thơ tượng hình từ trong chính vốn sống của nhà thơ, từ những chiêm nghiệm về cuộc đời và từ những học vấn uyên thâm trong sách vở thánh hiền. Đó là yêu cầu thứ hai trong hành trình đi tìm cấu tứ cho thơ. Kế thừa tinh thần của Lục Cơ trong Văn phú quan hệ giữa ba yếu tố: “thần” - “vật” - “ngôn”, Lưu Hiệp phát triển nó lên tầng sâu sắc mới mẻ hơn, để nó không còn thần bí bó hẹp mang tính chủ quan như Lục Cơ và Trang Tử, mà khá trùng khớp với tư duy lý tính - duy vật của nhà triết học lỗi lạc Aristote trong Nghệ thuật thơ ca. Đặt cấu tứ trong mối quan hệ với tài năng, cảm xúc và học vấn của nhà thơ, Lưu Hiệp đề cao và kết hợp năng lực tư duy lý tính với năng lực tưởng tượng của nhà thơ. Chính điều này khiến quan niệm về tứ của Lưu Hiệp trở nên đầy đủ và hấp dẫn. Nếu tứ được hình thành trong tâm tưởng nhà thơ thì kết cấu là bước chuyển từ ý tưởng trừu tượng sang khối hình hài tác phẩm cụ thể. Sau khi cấu tứ đã thành, trước khi dạo bút, người viết thường phải dựng kết cấu. Trong Dung tài, Lưu Hiệp cho rằng thao tác cơ bản khi bắt đầu dạo bút là Lý đoan, Cử chính, Quy dư. Trong đó, Lý đoan là thao tác xác lập kết cấu, tạo khung, chọn thể cho tác phẩm. Kết cấu là cái khung của tác phẩm nên vai trò của việc xác lập kết cấu rất quan trọng. Khi đó, người viết cần “căn cứ tình ý để xác lập thể chế”. Các tầng bậc của tác phẩm từ thể loại, chương, thiên, đoạn, cú, phải được xây dựng trên một khung liên kết vững chắc, trở thành nền tảng của tác phẩm. Khi viết văn thì phải tình ý đúng nơi, ngôn từ đúng chỗ; sắp đặt ý tình thành các chương, tạo lập ngôn từ thành câu cú. Sự rõ ràng, khúc chiết, hanh thông tình ý của tác phẩm phụ thuộc nhiều vào thao tác này. Lưu Hiệp không yêu cầu phải cứng nhắc rập khuôn mà ông đề cao tính linh hoạt, sáng tạo của người viết: “Khi sáng tác văn, bút, từng thiên có lớn có nhỏ, chương cú có phân có hợp, thanh điệu có chậm có nhanh, đều phải tùy theo biến hóa, không có quy củ nhất định” (Lưu Hiệp, 2007, tr.460). Mặc dù không đi sâu vào phân tích từng kết cấu loại thể trong thao tác thiết lập kết cấu và dừng lại ở yêu cầu kết cấu chung nhưng ông đề cao tính thiết yếu của việc xây dựng kết cấu. Vai trò của kết cấu TRẦN THANH BÌNH TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 45 được Aristote đề cập đến trong nghệ thuật kịch; riêng về thơ, do đặc trưng thể loại, ông chú trọng đến ngôn ngữ nhiều hơn. Về sau, đời Đường đã đẩy mạnh tầm quan trọng của kết cấu trong thi luật với kết cấu luận đề theo bố cục khuôn mẫu: đề - thực - luận - kết. 2.2.2. Các thủ pháp nghệ thuật trong sáng tác Theo Lưu Hiệp, giai đoạn thảo bút phức tạp và luân phiên giữa các thao tác: tạo nhạc tính, sử dụng biện pháp tu từ, và cuối cùng là gọt giũa ngôn từ. 2.2.2.1. Thủ pháp phối âm tạo nhạc tính cho thơ Thơ là tiếng lòng, là “tâm thanh” của người nghệ sĩ. Khi “tâm thanh” hòa với thanh điệu của ngôn ngữ thành một khối, hình thành nên sự biến hóa diệu kỳ của thanh luật trong thi ca. Từ xưa, khi bàn về thơ ca, đã có nhiều ý kiến về âm luật. Poetics của Aristote ở Hy Lạp và Natyasastra của Bharata ở Ấn Độ - hai tác phẩm nổi tiếng của nền thi pháp học cổ điển đã có sự gặp gỡ thú vị khi cùng đề cao vai trò của âm thanh trong ngôn ngữ thơ ca. Trong Poetics, Aristote đã bàn kỹ về cách sử dụng các yếu tố ngữ âm (âm cơ bản, vần, liên từ) để tạo nên độ ngắn dài, bổng trầm cho thơ. Aristote đã triển khai từng phần, phân tích đặc điểm của chúng và cách tổ chức chúng trong tác phẩm. Trong Natyasastra, Bharata đưa ra 10 phẩm chất (guna) và 10 khuyết điểm (dosa) của thơ ca. Trong đó, khuyết điểm sai nhịp (vsama) hoặc các phẩm chất êm ái (samata), ngọt ngào (madhurya), mạnh mẽ (ojas) (Phan Thu Hiền, 2006, tr.37) là những yếu tố thuộc về âm luật trong thơ. Sau Bharata, Bhamaha và cả Dandin, Vamana, Udbhata - những người kế thừa sau đó của thi pháp học Ấn Độ cổ điển tuy có nhiều quan niệm khác nhau trong thi pháp nhưng họ cùng đề cao nhạc tính trong thơ. Trong thiên Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp dành trọn một thiên Thanh luật để bàn về âm luật, điều này cho thấy ông rất đề cao vai trò của âm thanh trong tác phẩm. Trong chương này, Lưu Hiệp khẳng định, nguồn gốc của âm luật là trong khí huyết, trong tình cảm của con người. Vì vậy, nhạc khí mô tả âm thanh của người chứ không phải người học theo nhạc khí. Từ việc dẫn bàn âm luật trong âm nhạc, Lưu Hiệp khẳng định sự tất yếu của âm luật trong văn chương: “Âm luật bắt đầu hình thành, vốn từ âm thanh do con người phát ra. Âm thanh đó phù hợp cung thương, gốc gác do từ khí huyết, tiên vương xưa nhân đó mà chế thành nhạc ca” (“Phù âm luật sở thủy, bản ư nhân thanh giả dã. Thanh hợp cung thương, triệu tự huyết khí, tiên vương nhân chi, dĩ chế nhạc ca”). Âm luật còn là thước đo để đánh giá tác phẩm: văn chương hay dở, thể hiện ngay trong ngâm vịnh. “Thanh luật của văn chương như mơ muối nêm vào thức ăn cho đậm vị, như dầu béo phết thêm bên ngoài cho mỡ màng”. Vì vậy, phàm là người làm thơ, khi sáng tác, nhất thiết phải dụng công tạo nhạc cho thơ. Thủ pháp tạo nhạc tính cho thơ được Lưu Hiệp đề đặt và phân tích kỹ hai thể thức của âm hưởng để viết nên một bài thơ có tính hài hòa, đó là song thanh và điệt vận. Khi viết, người viết cần hiểu rõ “hai song thanh bị một chữ thì gián cách; hai điệt vận bị xen một câu thì không xuôi; âm trầm phát ra rồi đứt; âm cao vút lên khó trở về, phối hợp với nhau như sóng nước xoay tròn, như vảy rồng xếp lớp”. Để thực hiện SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020) 46 quy tắc phối hợp chặt chẽ khít khao này, người sáng tác cần nắm vững để tạo nên chuỗi thanh điệu êm tai nối nhau như ngọc xâu chuỗi, lanh canh như tiếng ngọc vang, thơ văn vì vậy mà thấm vào lòng người. Như vậy, nhất thiết, người làm thơ cần có hiểu biết sâu sắc về âm vận để tạo nên độ phối hợp hợp lý, cân đối, hài hòa. Thao tác làm cho hay đó gọi là hòa vận. “Vần điệu hay lộ rõ trong cách đặt câu, khí lực đưa hết vào chỗ hòa vận. Dị âm theo nhau gọi là hòa, đồng thanh ứng nhau gọi là vận” (Thị dĩ thanh họa nghiên xi, ký tại ngâm vịnh, tư vị lưu ư hạ cú, khí lực cùng ư hòa vận. Dị âm tương tòng vị chi hòa, đồng thanh tương ứng vị chi vận”). Thủ pháp tạo nhạc bằng cách chú trọng hòa vận, theo Lưu Hiệp, không phải là điều khó học, khó luyện, nhưng để đạt đến độ tinh diệu thì không dễ. Ông đã tỏ ra rất tinh thông âm luật Hán ngữ khi chỉ rõ quy luật hài thanh hiệp vần. Mặt khác, tuy bàn về âm thanh – cái vỏ ngôn ngữ, một yếu tố thuộc về hình thức, nhưng quan niệm của Lưu Hiệp vẫn không tách biệt hình thức với nội dung. Như đã nói, nhạc luật trong sáng tác, là “âm thanh với tâm tư”, nghĩa là tiếng của lòng người”. Chính vì vậy, tâm thanh không thể nào vọng ra thơ bằng độ vang của chữ một cách dễ dãi để mê hoặc những kẻ hám lạ. Lưu Hiệp phê phán những người viết ham quái dị, ham lạ. Với ông, nhạc thơ, phải là tiếng lòng tha thiết của con người. Mặc dù trên thực tế, thi luật và nhạc tính trong thơ luôn vận động nhưng việc tạo nhạc cho thơ luôn được nhiều người chú trọng. Nói như Lưu Hiệp,“làm văn chương phải hợp với âm luật, há lại coi thường được sao!”. Từ Aristote, Bharata đến Lưu Hiệp, chúng ta cùng thấy chung một quan điểm khẳng định vai trò của nhạc và kỹ thuật hòa âm trong thơ. Bởi đặc điểm cấu âm của ba ngôn ngữ trên vốn khác biệt nên âm luật được họ bàn đến cũng khác biệt nhưng xét về đại thể, nó có ý nghĩa định hướng sâu sắc và chính xác cho công việc sáng tác văn chương thời bấy giờ và còn có giá trị về sau. 2.2.2.2. Thủ pháp phối hợp các biện pháp tu từ Ngôn ngữ văn chương bắt nguồn từ ngôn ngữ đời sống. Vì vậy, khi sáng tác, nhà thơ phải “cố công chăm chút chữ nghĩa, sắp đặt tốt từ ngữ trên mặt giấy” để chúng sáng đẹp lên. Bằng tài trí của người sáng tác, ngôn ngữ đời thường được chắt lọc gọt giũa, sắp đặt trở nên lung linh tinh xảo giàu ý nghĩa thẩm mỹ. Kỹ thuật dụng công trên từng con chữ để tạo nên những quy luật sáng tác, nâng tầm ngôn ngữ thường nhật lên tầm ngôn ngữ nghệ thuật, phải kinh qua các biện pháp nghệ thuật tu từ. Tu từ là một thao tác bản lề của hai lãnh địa ngôn ngữ nêu trên. Trong Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp dụng công bàn sâu về các biện pháp nghệ thuật. Trong mỗi thiên Lệ từ, Tỷ hứng, Khoa sức đều chứa những kiến giải thuyết phục về một biện pháp nghệ thuật cốt sao cho văn chương trở nên đẹp đẽ và thu phục được lòng người. Đối ngẫu trong văn chương cổ là một thủ pháp thông dụng, có nguồn gốc từ quan niệm “sự bất cô lập”. Quan niệm về hiện tượng song đôi trong càn khôn vũ trụ đã hình thành nên nếp tư duy đối ngẫu trong sáng tác văn chương. Thao tác lựa chọn đẽo gọt ngôn từ trong lúc viết của các thi nhân xưa đã bao gồm chủ ý tạo đối ngẫu. “Người ta chú ý nhiều đến đẽo gọt văn từ, loại câu