Lý giải về sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở các ngâm khúc trữ tình trong văn học Việt Nam trung đại

TÓM TẮT Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là những tác phẩm trữ tình trường thiên diễn tả tâm trạng đau buồn, u uất triền miên của con người. Làm thế nào để kéo dài hàng trăm câu thơ chỉ với mục đích phơi bày tâm trạng như thế. Muốn giải bày, thổ lộ tình cảm không còn con đường nào khác là kể lại những việc có liên quan đến tình cảm ấy. Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có yếu tố tự sự. Tự sự đã đi vào ngâm khúc và xóa đi khoảng cách tưởng chừng như không thể tiệm cận giữa hai thể loại.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 310 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý giải về sự xuất hiện của yếu tố tự sự ở các ngâm khúc trữ tình trong văn học Việt Nam trung đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 25 - Thaùng 12/2014 125 LÝ GIẢI VỀ SỰ XUẤT HIỆN CỦA YẾU TỐ TỰ SỰ Ở CÁC NGÂM KHÚC TRỮ TÌNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI LƯU THỊ LOAN(*) TÓM TẮT Trong tác phẩm tự sự, cốt truyện đóng vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là những tác phẩm trữ tình trường thiên diễn tả tâm trạng đau buồn, u uất triền miên của con người. Làm thế nào để kéo dài hàng trăm câu thơ chỉ với mục đích phơi bày tâm trạng như thế. Muốn giải bày, thổ lộ tình cảm không còn con đường nào khác là kể lại những việc có liên quan đến tình cảm ấy. Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có yếu tố tự sự. Tự sự đã đi vào ngâm khúc và xóa đi khoảng cách tưởng chừng như không thể tiệm cận giữa hai thể loại. Từ khóa: tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, ngâm khúc, yếu tố tự sự, tâm trạng, tình cảm, thể loại ABSTRACT While frameworks play an important main part in works of narration, ngam khuc are works of lyric which always show people’s melancholic emotion lasting for a long time. How we can do to show our mood with hundred lines of poetry. There is no way to express our emotion except retell something which relates to that feeling. Therefore, works of lyric partly consist of some elements of narration. Narration, which is in ngam khuc, erases the distance of two these forms literature. Key words: work of narration, work of lyric, ngam khuc, element of narration, mood, emotion, forms 1. MỞ ĐẦU (*)Mỗi thể loại văn học đều có một cách thức tổ chức, sắp xếp các yếu tố tạo thành một chỉnh thể nghệ thuật. Việc nghiên cứu thi pháp như một hệ thống các nguyên tắc, phương thức, phương tiện thể hiện nghệ thuật, đòi hỏi phải xác lập các chỉnh thể văn học như là các đơn vị mang thi pháp. Cho đến nay, các nhà khoa học thường nói đến các chỉnh thể sau: Thứ nhất, tác phẩm văn học là một chỉnh thể, bởi đó là đơn vị sáng tạo toàn vẹn, có mở đầu, có kết thúc, có sự thống nhất hoàn mĩ giữa nội dung và (*)ThS, Trường Đại học Lâm nghiệp Việt Nam hình thức; thứ hai, sáng tác một tác giả, mặc dù một tác giả có thể sử dụng nhiều thể loại (sáng tác nhiều thể loại) nhưng trong quá trình sáng tác đó có thể giữ lại những hình thức cảm nhận và miêu tả vững bền gắn liền với phong cách cá nhân; thứ ba, sáng tác một thời đại, một trào lưu, khuynh hướng trong đó ngự trị những nguyên tắc cảm nhận và miêu tả thế giới bền vững chiếm ưu thế; thứ tư, các thể loại văn học với tư cách là kết cấu văn học vững bền, có ký ức thể loại. Mỗi tác phẩm ngâm khúc là một chỉnh thể nghệ thuật bởi nó có sự tổng hợp của nhiều yếu tố như: thể loại, nội dung, hình 126 thức, phong cách cá nhân, ngôn ngữ đặc biệt là có sự kết hợp của hai yếu tố tự sự và trữ tình trong nội dung tác phẩm tạo thành một chỉnh thể thống nhất. 2. NỘI DUNG Nếu như trong tác phẩm tự sự, cốt truyện có vai trò chủ đạo, thì ngâm khúc là những tác phẩm thơ trữ tình dài hơi (trường thiên) diễn tả những tâm trạng đau buồn, u uất triền miên của con người thường không có cốt truyện hoặc có cốt truyện đơn giản. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để tác giả có thể kéo giãn hàng trăm câu thơ chỉ với một mục đích là phơi bày tâm trạng như thế? Làm thế nào để lôi cuốn và khẳng định sức sống của các tác phẩm chỉ bằng thế giới tâm trạng tuy có phong phú nhưng ít biến chuyển mà phần lớn như đúc ra một khuôn tình cảm đau khổ, buồn rầu mà nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai gọi là“sự ngưng đọng trên một khối sầu”. Vấn đề sẽ được giải quyết khi chúng ta thấy sự xuất hiện của yếu tố tự sự. Tự sự đã đi vào ngâm khúc và xóa đi khoảng cách tưởng chừng không thể tiệm cận giữa hai thể loại. Muốn giãi bày, thổ lộ tình cảm không còn con đường nào khác là phải kể ra, thuật lại những sự việc có liên quan đến tình cảm ấy, những “hỉ, nộ, ái, ố” của con người là vì đâu, do đâu, hay những hoàn cảnh, trạng huống và sự kiện nào làm nảy sinh tâm tình ấy? Thật khó hình dung một trạng thái cảm xúc, bất định được nói ra một cách vô tận mà không có một chỗ neo bám cụ thể nào. Vì thế trong tác phẩm trữ tình ít nhiều có yếu tố tự sự. Việc đưa yếu tố tự sự vào trong thơ cũng là gợi ý để sáng tạo những thể loại mới. Khi tự sự và trữ tình có chức năng ngang quyền thì thể thơ trường thiên ra đời. Khi tự sự đóng vai trò chủ yếu, trữ tình chỉ là yếu tố điểm qua thì truyện thơ xuất hiện. Ngâm khúc – loại tác phẩm thường có dung lượng lớn, kết cấu theo phương thức trữ tình vẫn không thể tách rời các yếu tố tự sự: các sự kiện, các chi tiết, nhân vật. Chính các sự kiện, chi tiết, nhân vật (kể, thuật, tả) đó đã tạo nên yếu tố tự sự trong khúc ngâm. Trên đây đã nói đến sự xuất hiện của yếu tố tự sự và sự phá vỡ làn ranh giới giữa tự sự và trữ tình trong ngâm khúc. Tuy nhiên, sự phá vỡ này chưa đi đến mức độ xâm lấn và xóa nhòa hoàn toàn cả hai yếu tố. Phải thấy rằng, tự sự tuy có đi vào phương thức trữ tình trong tác phẩm nhưng không vì thế nó thực hiện cuộc soán ngôi, đánh tan những phẩm chất trữ tình nhằm tạo nên một thể loại mới (thể thơ tự sự). Chức năng biểu hiện tình cảm vẫn là chức năng chuyên biệt và trung tâm của khúc ngâm. Mọi yếu tố tự sự được vận dụng trong tác phẩm đều nhằm hướng đến nội dung phơi bày tâm trạng và phát huy tối đa chức năng đó. Nói đúng ra, tự sự dừng chân trong khúc ngâm chỉ như một sự xâm nhập của thể loại chứ chưa đến mức xóa nhòa ranh giới giữa tự sự và trữ tình. Yếu tố trữ tình luôn giữ một vai trò chủ đạo, cơ bản trong mỗi khúc ngâm, còn yếu tố tự sự chỉ là sơ đẳng. Chính sự kết hợp của hai yêu tố này đã tạo nên tính chỉnh thể của khúc ngâm. Tự sự là một trong ba phương thức (tự sự, trữ tình, kịch) tái hiện đời sống gắn liền với các yếu tố quan trọng như: tính khách quan, cốt truyện, nhân vật, trần thuật (kể). Theo Lại Nguyên Ân “Nét đặc thù của tự sự là vai trò tổ chức của trần thuật. Nó thông báo về các biến cố, các tình tiết như thông báo về một cái gì đó đã xảy ra và được nhớ lại, đồng thời mô tả hoàn cảnh, hành động và dáng nét các nhân vật, nhiều 127 khi còn thêm cả những lời bàn luận” [1, 359]. Đối với tác phẩm tác phẩm trữ tình, nguyên tắc chủ quan đóng vai trò chủ đạo trong việc chiếm lĩnh hiện thực, là nhân tố quan trọng quy định những điểm cốt yếu của tác phẩm. Tác phẩm trữ tình thể hiện tâm trạng, do đó thường không có cốt truyện hoặc cốt truyện đơn giản. Tuy nhiên các sự kiện, chi tiết vẫn giữa một vai trò quan trọng đối với loại trữ tình dài hơi như ngâm khúc. Ở đây các yếu tố tự sự (sự kiện, chi tiết, nhân vật) vẫn giữ một vai trò quan trọng. Theo Wellec và Warren, vấn đề chủ yếu của phương pháp tự sự là cách xử lý mối quan hệ giữa người kể chuyện và câu chuyện của anh ta, ở cách tổ chức lời văn kể chuyện để tạo ra một câu chuyện mới [chuyển dẫn từ 4, 195]. Ông cũng cho biết thêm: “nói đến nghệ thuật kể chuyện, ngày nay người ta không còn giản đơn là nói tới cách kể theo ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba một cách bề ngoài, mà tìm vào những yếu tố bên trong đã chi phối đặc điểm, chất lượng của ngôi kể ấy. Ngôi kể ấy vẫn có ý nghĩa riêng trong việc tạo thành giọng kể, một điều không thể coi nhẹ. Nhưng lý thuyết tự sự hiện đại đã nói đến điểm nhìn, tiêu cự, tức là nói đến phương pháp cảm nhận nhìn thấy con người và sự vật được kể. Phương pháp tự sự thực chất là phương pháp nhìn thấy sự vật và con người, phương pháp phát hiện về con người” [4, 195]. Theo Trần Đình Sử: “Điểm quan trọng nhất của các khúc ngâm đã tạo thành một kiểu trữ tình mới, có tính chất tự sự, có thể làm phong phú cho ngôn ngữ tự sự. Đó là lối trữ tình nhập vai. Đặng Trần Côn đã nhập vai người chinh phụ để viết Chinh phụ ngâm khúc, cũng như Nguyễn Gia Thiều đã thác lời người cung nữ để nói lên cảm nhận hư huyễn về cuộc đời. Trong lời trữ tình ấy, chủ thể trữ tình đóng hai vai, một vai người trần thuật (người kể), một vai người trong cuộc – người trữ tình” [2, 99]. Cái vai kép vừa tự sự vừa trữ tình là sự mở đầu cho lối tự sự nửa trực tiếp trong các khúc ngâm. Chẳng hạn lời giới thiệu, mở đầu Chinh phụ ngâm bản dịch của Đoàn Thị Điểm: Thuở trời đất nổi cơn gió bụi, Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên? Lời than (trữ tình): Xanh kia thăm thẳm từng trên Vì ai gây dựng cho nên nỗi này! Cung oán ngâm khúc mở đầu với lời than, lời trách, lời hỏi: Duyên đã may cớ sao lại rủi, Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang. Vì đâu nên nỗi dở dang, Nghĩ mình, mình lại thêm thương nỗi mình. Tiếp theo là lời tự sự (kể) tài năng và sắc đẹp của mình: Trộm nhớ thuở gây hình tạo hóa, Vẻ phù dung một đóa khoe tươi, Nụ hoa chưa mỉm miệng cười, Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung - Câu cẩm tú đàn anh họ Lý, Nét đan thanh bậc chị chàng Vương. - Cầm điếm nguyệt, phỏng tầm Tư Mã, Địch lầu thu lạ gã Tiêu lang. Dẫu mà miệng hát tay dang, Thiên tiên cũng ngảnh, Nghê Thường trong trăng. Qua khảo sát các ngâm khúc trong văn học Việt Nam trung đại, chúng tôi thấy có khá nhiều yếu tố tự sự. Đó là lời tự sự miêu tả về sắc đẹp của người cung phi trong Cung oán ngâm: Áng đào kiểm đâm bông não chúng, Khóe thu ba gợn sóng khuynh thành. Bóng gương lấp ló trong mành, 128 Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa. Còn đây là lời tự sự của cung phi trong cái đêm đầu tiên được nhà vua ân ái, gây cho nàng một cảm giác tuyệt vời, một hy vọng được trở thành hậu phi: Cái đêm hôm ấy đêm gì, Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng. Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ, Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu. Cành xuân hoa chúm chím đào, Gió đông thôi đã cợt đào, ghẹo mai. Đoàn Thị Điểm hóa thân vào người chinh phụ để dịch Chinh phụ ngâm. Trong Chinh phụ ngâm cũng có khá nhiều lời tự sự. Đây là lời tự sự miêu tả về chân dung, diện mạo, hành động của người chinh phu lúc mới xuất chinh: Múa gươm rượu tiễn chưa tàn, Chỉ ngang ngọn giáo vào ngàn hang beo. Áo chàng đỏ tựa ráng pha, Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in. Còn đây là lời tự sự miêu tả cảnh chia tay: Nhủ rồi tay lại cầm tay, Bước đi một bước dây dây lại dừng. Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại, Ngác Tiêu Tương thiếp hãy trông sang. Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương, Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng. Đây là lời kể, tả về gia cảnh của người chinh phu: Kìa lão thân khuê phụ nhớ thương, Tóc già phơ phất mái sương, Con thơ măng sữa vả dương phù trì. Lòng lão thân buồn khi tựa cửa, Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm. Trong Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ đã kể về cảnh sai nha ập vào nhà ông phá phách: Năm ba kẻ thước người hèo, Ngõ nhan lôi cái đan biều đập tan. Gà eo óc vừa tàn giấc mộng, Nhặng vo ve sực nức hồn kinh. Cảnh vợ con nheo nhóc: Tiểu đồng thổn thức xung quanh, Thê nhi lăn lóc bên mình khóc than. Cao Bá Nhạ tự nói về bản thân mình: Chim hồng mong chấp cánh bay, Năm xe kinh sử một tay vẽ vời. Và đây là lời tự tình thuật nghẹn trước giờ ly biệt: Ngoảnh vào ái ngại thê nhi, Ngoảnh ra án cũ cầm thi ngại ngùng. Trong Ai tư vãn, chủ thể trữ tình là người trong cuộc: - Trong sáu viện, ố đào, ủ liễu, Xác ve gầy, lỏng lẻo xiêm ghê. - Dưới bệ ngọc hàng uyên vò võ, Cất chân tay thương khó xiết chi. Đinh Nhật Thận hòa vào tâm trạng người “lữ thứ” để tả cảnh: Thơ nhã ái bốn câu lỡ vận, Rượu ly hoài ba chén làm khuây. Trước đèn ngồi tựa như trai, Não lòng đất khách ngậm ngùi người xưa. Các yếu tố tự sự trong các tác phẩm ngâm khúc như đã nói ở trên, gồm khá nhiều yếu tố, tuy nhiên thể hiện rõ nhất là một cốt truyện sơ giản. Theo Từ điển thuật ngữ văn học coost truyện “là hệ thống các sự kiện cụ thể, được tổ chức theo yêu cầu và tư tưởng nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại tự sự và kịch” [4, 99]. Cốt truyện là sản phẩm sáng tạo độc đáo của nhà văn. Mọi cốt truyện đều trải qua một tiến trình vận động có hình thành, phát triển và kết thúc. 129 Trong Chinh phụ ngâm khúc, người đọc nhận ra cáy ý bao trùm lên khúc ngâm là tiếng nói tố cáo, phản đối chiến tranh. Chiến tranh đã cướp đi tình yêu, hạnh phúc, tuổi trẻ của con người. Cốt truyện trong Chinh phụ ngâm xoay quanh câu chuyện một đôi vợ chồng trẻ đang sống yên ấm, hạnh phúc thì chiến tranh nổ ra, người chồng vội vã lên đường theo lệnh nhà vua: Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt, Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây. Chín lần gươm báu trao tay, Nửa đêm truyền hịch định ngày xuất chinh. Người chinh phụ trở về khuê phòng, tưởng tượng về cảnh sống của chồng nơi chiến địa. Nàng lo lắng cho chồng ở ngoài chiến trường đầy khốc liệt: Hồn tử sĩ gió ù ù thổi, Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi. Chinh phu tử sĩ mấy người, Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn. Đoạn tiếp theo của khúc ngâm, chủ yếu nói về tâm trạng nhớ thương, mong đợi của người chinh phụ trong cảnh cô quạnh. Người chồng lần lữa, chín hẹn mười thường đơn sai nhưng người vợ ở nhà vẫn làm tròn bổn phận của mình: phụng dưỡng cha mẹ già và nuôi con nhỏ. Nỗi sầu cứ chồng chất, người chinh phụ chán chường và tuyệt vọng không thiết tha đến điều gì chỉ mong được sống cùng chồng. Kết thúc tác phẩm, người chinh phụ hình dung ngày chồng nàng trở về trong niềm vui chiến thắng khải hoàn, được nhà vua ban thưởng và cùng nàng sống hạnh phúc trong thanh bình, yên ả: Giữ gìn nhau vui thuở thái bình Ngân nga xin gửi chữ tình: Dường này âu hẳn tài lành trượng phu. Trong Cung oán ngâm khúc, cốt truyện xoay quanh việc một cô gái trẻ đẹp và có tài, nàng được nhà vua tuyển vào trong cung: Hương trời đắm nguyệt say hoa, Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình. Lúc đầu nàng được nhà vua cưng chiều, sủng ái, ân ái mặn nồng thắm thiết: Mây mưa mấy giọt chung tình, Đình trầm hương đóa một cành mẫu đơn. Nhưng chẳng bao lâu, nàng đã bị nhà vua chán bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho thân phận của mình và oán trách nhà vua phụ bạc: Khoảnh làm chi bấy chúa xuân Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi. Cung nữ muốn “đạp tiêu phòng mà ra”, khát khao trở về với cảnh đời “cục mịch nhà quê” thuở trước nhưng nàng vẫn tiếp tục bị giam cầm trong cung điện vàng son, trong nỗi buồn đau, sầu thảm và oán hờn chất chứa. Cuối cùng nàng vẫn khát khao có được những cuộc ân ái hiếm hoi khi xưa: Tình rầu rĩ làm ngây nhĩ mục, Chốn phòng không như giục mây mưa. Giấc chiêm bao những đêm xưa, Giọt mưa cửu hạn còn mơ đến rày. Nàng vẫn mong chờ được nhà nhà vua đoái hoài đến và lo lắng không giữ được sắc đẹp như xưa: Phòng khi động đến cửu trùng, Giữ sao cho được má hồng như xưa. Trong Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ, người đọc nhận ra cái ý bao trùm của khúc ngâm là cái ý oán hận vì tác giả phải trả cái tội mà mình không làm. Đại để đó là sự quanh co, bực bội, âu sầu của người tù Cao Bá Nhạ. Qua tâm sự ấy, ta nhận thấy trước hết là đạo nghĩa rất mạnh của Nho gia. Qua tâm sự ấy ta còn nhận thấy một Bá Nhạ giàu tình cảm: lòng nhớ quê hương, thương 130 cha me, thương vợ con và thương thân trải ra trong nhiều câu lâm ly. Theo Phạm Thế Ngũ, tác giả làm ra khúc ngâm này chủ ý biện hộ cho mình trước “tội lỗi” (theo quan điểm của nhà Nguyễn) mà chú ông là Cao Bá Quát gây ra (cầm đầu khởi nghĩa Mỹ Lương) và xin triều đình ân xá. Tác phẩm gồm 680 câu thơ song thất lục bát viết bằng chữ Nôm, có thể chia làm 6 phần: Mở đầu (8 câu): Sau khoảng tám năm lẩn trốn (1854- 1862), tác giả giờ đây bị bắt nên làm ra khúc ngâm này để bày tỏ tâm sự của mình. Giới thiệu về gia thế (từ câu 9 đến câu 36): Tác giả họ Cao ở làng Phú Thị, đã mấy đời khoa bảng, vẫn luôn lấy sự thanh liêm cần mẫn làm đầu. Gia biến và lánh nạn (từ câu 37 đến câu 188): Vì tội của chú (Cao Bá Quát) mà cha tác giả phải tự sát, bản thân phải trốn ở nơi hẻo lánh (Mĩ Đức thuộc Hà Đông cũ) làm thày đồ tạm quên sầu muộn với sách và hoa. Tác giả nói mình đã có vợ con, bấy lâu nay chỉ mong được nhà vua ân xá. Thuật lại việc bị bắt (từ câu 189 đến câu 324): Không ngờ có người tố giác, bị quan bao vây, bắt bỏ cũi đưa đi (Hải Dương, Bắc Ninh), chịu nhiều khổ sở, nhục nhã. Kể tâm sự trong ngục (từ câu 325 đến câu 572): Tác giả buồn tủi, đau đớn vì bị oan ức nhưng vẫn cố gắng giữ lòng ngay thẳng và rất nhớ về cha mẹ, vợ con ở quê nhà. Kết thúc (từ câu 572 đến 608): Tác giả tin vào đạo lý thánh hiền, hy vọng vào công lý của trời và phúc đức của nhà mình. Cũng giống như hoàn cảnh của Cao Bá Nhạ, Đinh Nhật Thận là bạn thân của Cao Bá Quát. Khi Cao Bá Quát dấy binh khởi nghĩa không thành, Đinh Nhật Thận bị nghi ngờ có liên quan nên ông bị bắt và bị giải về kinh đô (Huế) để xét hỏi. Nhưng sau đó ông được tha và trở về quê nhà. Thu dạ lữ hoài ngâm được ông làm trong thời gian ông bị quản thúc ở Huế. Thu dạ lữ hoài ngâm là câu chuyện về nỗi niềm của nhà thơ: tình thương nhớ quê hương và gia đình, là nỗi buồn đau, xót xa khi bị giam cầm ở một nơi lạnh lẽo, xa lạ. Còn cốt truyện trong Ai tư vãn thì lại xác định theo bố cục sau: Từ câu 1 đến câu 20: Kể công đức của vua Quang Trung, kể về mối lương duyên của bà: Từ câu 21 đến câu 28: Kể về tình nghĩa vua Quang Trung đối xử với nhà Lê: Từ câu 29 đến câu 44: Vua Quang Trung nhuốm bệnh rồi mất. Từ câu 45 đến 108: Kể về nỗi niềm thương xót của bà, bà hồi tưởng lại cảnh sum vầy đẹp đẽ. Từ câu 109 đến câu 130: Nỗi buồn muốn chết theo chồng. Từ câu 131 đến câu 144: Thương cho cảnh côi cút của các con nhỏ và cảnh lẻ loi của người góa bụa ở trong cung. Từ câu 145 đến câu 164: Tâm sự đau thương của bà. 3. KẾT LUẬN Có thể thấy mọi chi tiết tự sự được sử dụng đều hướng đến nội dung trữ tình được nói đến trong tác phẩm. Và không chỉ đơn giản như một yếu tố phụ có vai trò làm phông nền cho tâm trạng mà tự sự đóng vai trò quan trọng. Không có nó, tâm trạng nhân vật sẽ thiếu đi một bệ đỡ, một điểm tựa để ra đời và phát triển. Dòng tâm trạng của nhân vật cũng vì thế mà không thể trôi chảy tự nhiên, thuận lợi và dễ dàng trong chiều của tác phẩm. Và một điều quan trọng hơn, sự có mặt của yếu tố tự sự sẽ giúp tâm trạng nhân vật được “lạ hóa”, không gây cảm giác nhàm chán và tẻ nhạt 131 cho người tiếp nhận. Vì sao lại nhận định như vậy? Có thể thấy, tâm trạng nhân vật tuy có rất nhiều sắc thái khác nhau nhưng đều đồng quy từ một chữ buồn nên ít nhiều nó có sự lặp lại. Tuy rằng sự lặp lại này cũng nằm trong dụng ý của khúc ngâm là triển khai đến mức tối đa sự trì trệ, ứ đọng, không gì giải tỏa và vượt thoát được của tình cảm, nhưng nó rất dễ gây mất hứng thú cho người đọc. Vì thế việc đưa vào chi tiết về việc làm, hành động của nhân vật sẽ nhằm đổi khẩu vị thưởng thức cho độc giả, khiến họ tưởng chừng như diện kiến một gương mặt cảm xúc mới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 3. Lương Văn Đang, Nguyễn Thạch Giang, Nguyễn Lộc (1987), Những ngâm khúc chọn lọc, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 4. Nguyễn Đăng Điệp (giới thiệu và tuyển chọn) (2004), Trần Đình Sử tuyển tập (tập 1), Những công trình thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. *Ngày nhận bài: 4/6/2014. Biên tập xong: 1/12/2014. Duyệt đăng: 6/12/2014