Lý Luận văn học: Từ những hệ quy chiếu bất bình đẳng đến một cách tiếp cận tổng thể

LƯỢC ĐỒ CÁC LÝ THUYẾT VĂN HỌC Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau. Điều này có thể được mô tả bằng một mô hình thường được gọi là Sơ đồ Aristotle

pdf15 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lý Luận văn học: Từ những hệ quy chiếu bất bình đẳng đến một cách tiếp cận tổng thể, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LÝ LUẬN VĂN HỌC: TỪ NHỮNG HỆ QUY CHIẾU BẤT BÌNH ĐẲNG ĐẾN MỘT CÁCH TIẾP CẬN TỔNG THỂ I.1. LƯỢC ĐỒ CÁC LÝ THUYẾT VĂN HỌC Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau. Điều này có thể được mô tả bằng một mô hình thường được gọi là Sơ đồ Aristotle: Hình. 1. Sơ đồ Aristotle M. H. Abrams, trong Chiếc gương và ngọn đèn: Lý thuyết Lãng mạn và Truyền thống Phê Bình (The Mirror and the Lamp: Romantic Theory and the Critical Tradition), chỉ ra rằng tất cả các lý thuyết văn học đều khảo sát vai trò và mối quan hệ giữa bốn yếu tố này. Ông nhận xét: Mặc dù bất kỳ lý thuyết khả lý nào cũng đều có tính đến cả bốn yếu tố, hầu như tất cả các lý thuyết, như chúng ta sẽ thấy, chỉ chủ yếu hướng đến một yếu tố mà thôi. Điều này có nghĩa là, nhà phê bình có xu hướng lấy một trong bốn yếu tố làm cơ sở cho việc định nghĩa, phân loại và phân tích một tác phẩm nghệ thuật, cũng như làm tiêu chí chính để đánh giá. Việc áp dụng sơ đồ phân tích này, vì thế, sẽ phân các nỗ lực lý giải bản chất và giá trị tác phẩm nghệ thuật thành bốn nhóm lớn. Ba trong số đó lý giải tác phẩm nghệ thuật bằng cách đặt nó trong mối quan hệ với một yếu tố khác: thế giới, người tiếp nhận, hoặc nghệ sĩ. Nỗ lực thứ tư lý giải tác phẩm bằng việc nghiên cứu nó một cách riêng rẽ, như là một chỉnh thể độc lập có ý nghĩa và giá trị tự thân[1]. (6-7) Abrams đã làm đúng như thế. Dựa trên Sơ đồ Aristotle, ông phân biệt bốn nhóm lý thuyết văn học: a. Các lý thuyết Mô phỏng (Mimetic), tập trung vào mối quan hệ giữa văn bản và thực tại; b. Các lý thuyết Biểu cảm (Expressive) tập trung vào mối quan hệ giữa văn bản và tác giả; c. Các lý thuyết Khách quan (Objective) xem xét văn bản độc lập với mọi hệ quy chiếu; và d. các lý thuyết Thực dụng (Pragmatic), tập trung vào quan hệ giữa văn bản và người đọc (7). 1. Các lý thuyết Mô phỏng: Những đoạn văn bản sớm nhất còn ghi lại được của các lý thuyết mô phỏng có thể tìm thấy trong các tác phẩm của Plato và muộn hơn là trong Nghệ thuật thi ca của Aristotle. Trong phúng dụ nổi tiếng về cái hang, Plato viết rằng thế giới của chúng ta chỉ là sự phản ánh của những Ý niệm bất biến và vĩnh cửu, và đến lượt mình, thế giới lại được phản ánh qua nghệ thuật, cũng như qua gương, bóng râm và mặt nước (227). Việc hình ảnh chiếc gương được sử dụng như là một ẩn dụ trong suốt lịch sử hàng ngàn năm của nghệ thuật, trong đó có văn chương, cho thấy mức độ ảnh hưởng của lý thuyết này. "Nghệ thuật là tấm gương phản ánh thực tại" – tuyên bố này chúng ta không ngừng được nghe, thậm chí ngay cả hôm nay. Trong cuộc sống hàng ngày, không khó khăn gì chúng ta cũng có thể nhận thấy rằng rất nhiều người, trong đó có cả những nhà nghiên cứu văn học, vẫn thường sử dụng nó, một cách ngầm ẩn hoặc hiển ngôn, khi đánh giá các tác phẩm văn học. Ảnh hưởng của thuyết mô phỏng sâu sắc và cũng tinh tế đến nỗi người ta có cảm giác đó là chân lý hiển nhiên. Robert L. McLaughlin, trong lời nói đầu tập Cách tân: Hợp tuyển truyện hiện đại và đương đại (Innovations: Anthology of Modern and Contemporary Fiction), viết: “Trong lớp Anh văn bậc đại học của tôi, một cách vô thức, sinh viên thường coi chủ nghĩa hiện thực như là hòn đá thử vàng để đánh giá tác phẩm khi đọc truyện”[2] (xiv). 2. Các lý thuyết Thực dụng. Các lý thuyết này đánh giá tác phẩm văn học dựa trên căn cứ là các mục đích xã hội. Đối với các nhà tư tưởng châu Á, mục đích của văn chương trước hết là để truyền tải tư tưởng, “Văn dĩ tải đạo". Nói cách khác, giá trị của tác phẩm trước hết là giá trị xã hội. Ở Phương Tây, Cicero và Horace cũng áp dụng tu từ học của họ vào văn chương với những mục đích thực dụng tương tự. Các nhà Khai Sáng thì tin, và đòi hỏi, khả năng của văn chương trong việc giáo dục quần chúng. Quan niệm thực dụng cũng ngầm ẩn trong tư tưởng của Sir Philip Sidney, người nối tiếp truyền thống Hy Lạp khi viết trong Bênh vực thơ ca (An Apology for Poetry), rằng văn chương “mô phỏng nhằm cả hai mục đích là làm vui thích và giáo dục; làm vui thích để khiến con người nhận lấy điều tốt đẹp trong tầm tay mà nếu không có niềm vui thích họ sẽ bỏ qua như một kẻ xa lạ, và giáo dục để khiến con người nhận biết điều tốt đẹp mà họ hướng tới”[3] (158) Trong thế kỷ XX, chúng ta cũng nhiều lần nghe thấy những lời khẳng định rằng giá trị văn chương gắn liền với giá trị xã hội, chẳng hạn trong khái niệm “văn học dấn thân” (litérature engagée) của Jean-Paul Sartre, hay trong khái niệm “nghệ thuật vị nhân sinh” mà nhà phê bình Marxist Hải Triều sử dụng để phê phán “nghệ thuật vị nghệ thuật” trong cuộc tranh luận nổi tiếng với Hoài Thanh ở Việt Nam những năm 1930. 3. Các lý thuyết Biểu cảm. Các lý thuyết này coi tác phẩm văn học như là một sản phẩm đặc biệt của tình cảm và tư duy của tác giả. Cho đến tận ngày nay, ở phương Đông cũng như ở phương Tây, chúng ta không ngừng được nghe rằng thơ là sự biểu lộ cảm xúc “thăng hoa” của nhà thơ. Quan niệm này chính là cơ sở để Longinus, trong On the Sublime, ca ngợi Sappho (83), hay Hoài Thanh, trong Thi Nhân Việt Nam, lựa chọn các tác giả. Trong lời nói đầu cho Lyrical Ballads, Wordsworth cũng định nghĩa thơ như là “sự tuôn trào của những cảm xúc mạnh mẽ” (trích theo Abrams 21)[4]. Nói tóm lại, theo thuyết Biểu cảm, tác giả giống như là Thượng Đế, kẻ sáng tạo ra một thế giới của riêng mình. Như vậy vai trò của người đọc chỉ đơn thuần là “tìm hiểu”, “khám phá” những gì tác giả muốn truyền đạt qua tác phẩm. Thuyết Biểu cảm đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với chủ nghĩa Lãng mạn châu Âu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, một số tác giả cuối thế kỷ XX, như Roland Barthes, đã đặt lại vấn đề. Họ lập luận rằng “tác giả là một nhân vật thời hiện đại, một sản phẩm của xã hội như nó đã và đang tồn tại, nổi lên từ thời Trung cổ cùng với chủ nghĩa thực chứng Anh, chủ nghĩa duy lý Pháp và đức tin cá nhân của Cải cách tôn giáo”[5] (143), 4. Các lý thuyết Khách quan: Những lý thuyết này nghiên cứu tác phẩm văn chương một cách độc lập với các hệ quy chiếu bên ngoài, coi tác phẩm là một đối tượng tự thân, với giá trị được quyết định hoàn toàn bởi những đặc điểm nội tại và mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành tác phẩm. Nói cách khác, tác phẩm có thể được đánh giá hoàn toàn bởi những đặc điểm riêng của nó. Quan niệm khách quan là cốt lõi của Chủ nghĩa hình thức, Phê bình Mới (New Criticism), và trong chừng mực nào đó cả Cấu trúc luận và Tín hiệu học. Chủ nghĩa hình thức (Formalism) hình thành và nổi lên vào các thập niên 1910-1920 và chín muồi vào các thập niên 1930-1940 với những tên tuổi chủ chốt như Eikhenbaum, Shklovsky, Tomashevsky, và Jakobson. Shklovsky lập luận rằng văn học, cũng như nghệ thuật nói chung, về bản chất như là quá trình "lạ hóa” (остранение, estrangement) ngôn ngữ thường ngày (6). Jakobson thì định nghĩa văn học như là "một sự phá hoại có tổ chức đối với ngôn ngữ thông thường"[6]. Vì thế, theo họ, bản chất văn học nằm ở các “thủ pháp” hình thức của nó. Phê bình Mới phát triển rực rỡ nhất vào các thập niên 1940-1950, chủ yếu tại các quốc gia nói tiếng Anh (cái tên Phê bình Mới xuất hiện lần đầu tiên năm 1941 trong tác phẩm The New Criticism của John Crowe Ransom). Phê bình Mới được đặt nền móng bởi I. A. Richards, William Empson, T. S. Eliot, và được phát triển bởi nhiều tác giả tên tuổi như R. P. Blackmur, Cleanth Brooks, John Crowe Ransom, Allen Tate, Robert Penn Warren, và William K. Wimsatt. Cũng như các nhà Hình thức chủ nghĩa, các lý thuyết gia Phê bình Mới coi tác phẩm như là những đối tượng độc lập, tự quy chiếu. Cleanth Brooks, chẳng hạn, tuyên bố trong Phê bình và Lịch sử Văn học: Horation Ode của Marvell (Criticism and Literary History: Marvell's Horation Ode) rằng “bài thơ có đời sống riêng, và một ý nghĩa trong đó bản thân nó cung cấp tiêu chí duy nhất để đánh giá những gì nó mang tải”[7] (200). Mặc dù bốn cách tiếp cận mà Abrams mô tả cho phép ta nghiên cứu những khía cạnh hữu ích không thể phủ nhận của văn bản (mọi tác phẩm đều phản ánh thực tại bằng cách nào đó, đều có những mục đích xã hội nhất định, đều trực tiếp hay gián tiếp thể hiện những ý đồ và tình cảm của tác giả, và đều có những đặc điểm hình thức của riêng nó), không cách tiếp cận nào cho phép chúng ta nhận thức một cách trọn vẹn và năng động về quá trình sáng tác và tiếp nhận tác phẩm. Như Abrams đã nhận xét, mỗi cách tiếp cận đều dựa trên một hay một nhóm các tiêu chí - thường khô cứng, giản lược và phiến diện. Lý do sâu xa của tình trạng này, theo tôi, là ở chỗ tất cả các lý thuyết nói trên đều xem xét tác phẩm như là những sản phẩm đã hoàn thiện với một số đặc điểm bất biến mà người đọc có thể khảo sát một cách khách quan. Thêm nữa, những đặc điểm của tác phẩm, cho dù có được nhìn nhận theo quan điểm mô phỏng, khách quan, biểu cảm hay thực dụng, đều được quan niệm như một thứ “chân lý”, giống như chân lý trong khoa học tự nhiên, mà những người đọc khác nhau có thể cảm nhận hoàn toàn giống nhau, chẳng khác gì chúng ta cảm nhận những đặc điểm của một chiếc ghế hay một que kem. Được tiến hành vào những năm giữa thế kỷ XX, các nghiên cứu của Abrams dĩ nhiên không thể đề cập đến những lý thuyết quan trọng nổi lên vào những thập niên sau đó. Một trong những lý thuyết đó là Lý thuyết Tiếp nhận (hay đôi khi còn gọi là thuyết Hồi ứng độc giả, “reader- response”, với ít nhiều khác biệt). Được khởi đầu bởi Roman Ingarden và Louise Rosenblatt, lý thuyết Tiếp nhận được phát triển nhờ những nỗ lực của Wolfgang Iser, Hans Robert Jauss và Stanley Fish. Lý thuyết tiếp nhận chịu ảnh hưởng sâu sắc của Husserl và Hiện tượng luận, theo đó thế giới bao giờ cũng là thế giới đã được ý thức ấn định, hay dự kiến; ngược lại, ý thức bao giờ cũng là ý thức về điều gì đó. Ý nghĩa của tác phẩm, theo quan điểm hiện tượng luận, cũng là một “đối tượng được dự kiến”, "intended object", như vậy: lý thuyết tiếp nhận nhấn mạnh vai trò của độc giả và coi tác phẩm văn học như là cái gì đó chỉ tồn tại trong đầu độc giả mà thôi. Gần như đồng thời với thời gian ra đời và phát triển của lý thuyết tiếp nhận, nhiều nhà tư tưởng, trước hết là các lý thuyết gia Hậu cấu trúc (poststructuralists), Giải tạo luận (deconstructionists), và Hậu hiện đại (postmodernists) - những thuật ngữ này thường giao thoa, hay thậm chí đồng nhất – đã công bố nhiều công trình nghiên cứu quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến lý luận phê bình văn học. Là những nhà cách mạng tư tưởng hết sức triệt để, thậm chí cực đoan, những tác giả chủ chốt của của các lý thuyết nói trên thách thức và đảo lộn tất cả các quan niệm truyền thống về tác giả, độc, văn bản, thực tại, cũng như mối quan hệ giữa chúng. Quan điểm chủ đạo của các nhà tư tưởng hậu hiện đại, như Jacques Derrida, là văn bản văn chương không có một ý nghĩa xác định. Theo họ, thay vì phản ánh thực tại, văn bản văn chương bao giờ cũng mang tính tự kỷ trung tâm (self-centered). “Việc viết ngày nay, Michel Foucault viết trong Ngôn ngữ, Phản-kí ức (Language, Counter-memory), đã tự giải thoát khỏi nhu cầu ‘diễn đạt’; nó chỉ còn quy chiếu đến chính nó.”[8] (117) Cũng trong một mạch đó, Roland Barthes tuyên bố rằng tác giả đã chết, nhường chỗ cho người đọc. Julia Kristeva, một học trò của Barthes, thì thay thế văn bản bằng một chuỗi bất tận của của liên văn bản (intertextuality). Bà viết: “mọi văn bản đều được cấu tạo như là một bức khảm từ những đoạn trích dẫn; mọi văn bản đều là sự hấp thụ và biến đổi của một văn bản khác. Khái niệm liên văn bản thay thế cho khái niệm liên chủ thể, và ngôn ngữ thơ phải được đọc ít nhất dưới dạng ngôn ngữ kép.”[9] (66) Ngay cả các lý thuyết mới này cũng chưa có khả năng đưa ra một bức tranh đầy đủ về quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn chương, bởi lẽ chưa quan tâm đúng mức đến mối quan hệ biện chứng và tương tác giữa bốn thành tố tác giả, độc giả, văn bản và thực tại. Trên thực tế, lý thuyết tiếp nhận cũng như các lý thuyết hậu hiện đại chỉ huyền bí hóa tác phẩm văn chương. Dưới đây, tôi sẽ cố gắng khảo sát kỹ hơn những lý thuyết mới này, tập trung vào hai điểm: 1. Mối quan hệ giữa Tác giả và Độc giả; 2. Mối quan hệ giữa Văn bản và Thực tại. I.2. NHỮNG HỆ QUY CHIẾU BẤT BÌNH ĐẲNG: mỐI QUAN HỆ GIỮA TÁC GIẢ VÀ ĐỘC GIẢ Mối quan hệ giữa Tác giả và Độc giả thường không được quan tâm thỏa đáng. Trên thực tế là cho đến nay, rất ít nhà nghiên cứu chú trọng đến việc lý thuyết hoá mối quan hệ này. Nếu đôi khi đề cập đến mối quan hệ này, họ cũng thường không coi Tác giả và Độc giả có vai trò bình đẳng. Đối với các lý thuyết Thực dụng, mối quan hệ này là gián tiếp: văn bản đóng vai trò một thứ công cụ của tác giả, đứng ở vị trí của người chủ động, thậm chí là của người thầy. Thuyết Biểu cảm lại càng đề cao vai trò của Tác giả: tác giả chính là một vị Thượng Đế toàn năng, kẻ độc lập sáng tạo ra tác phẩm. Mặc dù trong vài thập kỷ gần đây, quan niệm gần như đã trở thành truyền thống này bị nhiều người phê phán, sự mất cân đối - mà tôi xin gọi là sự bất bình đẳng văn học - này vẫn tồn tại dai dẳng và khá hiển nhiên. Điều này thật đáng ngạc nhiên, bởi lẽ ai cũng thấy rằng sẽ chẳng có văn chương nếu không có tác giả và độc giả. Một ví dụ là môn Tường giải học (hermeneutics) của nhà lý luận Hoa Kỳ E. D. Hirsch. Trong tác phẩm Hiệu lực của sự diễn giải (Validity in Interpretation, 1967). Hirsch lập luận rằng chúng ta cần phải phân biệt giữa ý (meaning) và ý nghĩa (significance). Theo Hirsch, mỗi cuốn sách chỉ có một ý duy nhất, đó là điều tác giả muốn nói vào lúc viết. Nhưng, Hirsch viết, "Bởi vì tất cả chúng ta đều không phải là tác giả, chúng ta không thể tái hiện cái ý mà tác giả muốn nói, và thậm chí ngay cả trong trường hợp chúng ta tình cờ làm được điều đó, chúng ta vẫn không thể chắc chắn được rằng đó chính là ý mà tác giả định đưa ra"[10] (14) Trái lại, (các) ý nghĩa là những gì các độc giả tiếp nhận được khi đọc văn bản, vì thế rất khác nhau. Trong sơ đồ này, tác giả rõ ràng đóng vai trò chủ động, còn độc giả đóng vai trò thụ động, và giữa họ không có nhiều liên hệ. Chúng ta có thể thấy qua phân tích của Hirsch rằng trên thực tế, độc giả hoàn toàn không có khả năng nắm bắt được ý của tác phẩm; và nếu họ có tình cờ nắm được, làm sao họ có thể biết rằng đó chính xác là ý của tác giả - ông hay bà ta có thể đã chết, hoặc đã quên ý định của mình, hoặc có thể có nhiều ý định khác nhau khi viết? Lý thuyết của Hirsch trên thực tế cũng không khác mấy lý thuyết của đại diện Phê Bình Mới A. Richards, người coi văn bản như một thứ cửa sổ, qua đó độc giả có thể phát hiện ra tâm hồn và trí tuệ của nhà văn. Trọng tâm khảo sát của Lý thuyết tiếp nhận, như tôi đã viết ở trên, không phải là mối quan hệ giữa Tác giả và Độc giả, mà là mối quan hệ giữa Độc giả và Văn bản. “Trung tâm của sự đọc bất kỳ cuốn sách nào - Iser viết trong The Act of Reading - là mối tương tác giữa cấu trúc của nó với người tiếp nhận."[11] (20) Trong lý thuyết của Iser, độc giả chiếm vị trí ưu tiên của một tác nhân tích cực. Vì vậy, đối với Iser, độc giả cần phải có đầu óc rộng mở ("open-minded"), hay tự do, thì quá trình đọc mới thành công. Iser đã tự mâu thuẫn, bởi lẽ theo lý thuyết của chính ông, để đọc thành công, độc giả phải được trang bị, hay làm quen, với một loạt khả năng và kỹ thuật, cái mà Iser gọi là “danh mục” (repertoires), “hình thành từ nguyên liệu được lựa chọn từ các hệ thống xã hội và truyền thống văn học”[12] (86) mà văn bản chứa đựng trong nó. Nhưng cái tôi muốn nói ở đây là sự hạ thấp vai trò của Tác giả. Và điều này cũng đúng với Hans Robert Jauss, một đại diện khác của trường phái Tiếp nhận, khi ông, trong Literary History as a Challenge to Literary Theory, có tham vọng xây dựng một lịch sử văn học dựa trên sự tiếp nhận chứ không phải trên cơ sở các tác giả, các ảnh hưởng và trào lưu văn học. Mặc dù Lý thuyết tiếp nhận là một sự phát triển quan trọng của Lý luận văn học hiện đại, nó vẫn vấp phải những vấn đề không giải quyết nổi. Chúng ta có thể hỏi, như một sinh viên trong tiểu luận nổi tiếng Is There a Text in This Class (Trong lớp học này có văn bản nào không?) của Stanley Fish: "Chúng ta có nên tin rằng có những bài thơ và đồ vật, hay đó chỉ đơn thuần là chính chúng ta?"[13] (227) Thực vậy, nếu văn chương chỉ là những sơ đồ, hay một tập hợp những phương sách, sẽ được độc giả cụ thể hoá, thì làm sao chúng ta có thể nghiên cứu các sơ đồ trước khi cụ thể hoá chúng? Và phải chăng như vậy nhiệm vụ của phê bình văn học là nghiên cứu cái cách chúng ta cụ thể hoá các sơ đồ? Nếu văn chương phụ thuộc chủ yếu vào quá trình đọc, vậy nó có thể là bất cứ thứ gì độc giả muốn hay không? Tại sao Othello của Shakespeare vẫn là Othello của Shakespeare đối với những độc giả khác nhau? Một cách nhìn thú vị khác về quá trình tiếp nhận tác phẩm có thể tìm thấy ở Roland Barthes. Với Barthes, cũng như với một số nhà lý luận hậu cấu trúc khác, như Jacques Derrida, ngôn ngữ không phải là một hệ thống như trong lý thuyết của Ferdinand de Saussure, mà đúng hơn là một chuỗi vô tận những trò chơi ngẫu nhiên giữa các ký hiệu mà Saussure gọi là “cái biểu hiện”. Vì thế, đọc là quá trình lướt qua các từ ngữ, một quá trình tạo ra Khoái cảm của văn bản – tên một tác phẩm của Barthes xuất bản năm 1973. Trong lý thuyết này tác giả không xuất hiện. Và điều này không có gì đáng ngạc nhiên: Barthes chính là người đã tuyên bố về Cái chết của Tác giả. Theo các nhà lý luận Hậu hiện đại, nhất là Michel Foucault, Tác giả là một hiện tượng lịch sử tương đối mới mà sự xuất hiện gắn liền với quan niệm duy lý thời hiện đại trong đó con người được ca ngợi như là người chủ tự do và độc lập của thế giới, xã hội và vận mệnh của chính mình. Ý tưởng này được thể hiện hết sức rõ ràng trong cách Immanuel Kant địnhnghĩa Khai sáng trong tiểu luận nổi tiếng “Khai sáng là gì” (What Is Enlightenment, 1784): Khai sáng là sự thoát ly của con người ra khỏi tình trạng vị thành niên do chính lối con người ấy gấy ra. Vị thành niên là sự bất lực không thể vận dụng trí tuệ của mình một cách độc lập mà không cần sự chỉ đạo của người khác. Tình trạng vị thành niên này là do lỗi tự mình gây ra, một khi nguyên nhân của nó không phải do sự thiếu sót trí tuệ, mà do sự thiếu sót tính cương quyết và lòng can đảm, dám tự mình dùng trí tuệ phục vụ cho mình mà không cần đến sự chỉ đạo của người khác. Sapere aude! Hãy can đảm tự sử dụng trí tuệ của chính mình! đó là phương châm của Khai Sáng[14]. Trong văn học, ý tưởng rằng con người được khai sáng có khả năng hành động một cách tự do và độc lập ngụ ý rằng anh hay chị ta sẽ tự do thể hiện tư tưởng và cảm xúc của mình. Chính vì lẽ đó, vai trò của tác giả trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Các nhà tư tưởng hậu hiện đại lập luận rằng chủ thể, hay cái tôi, của tác giả cũng là sản phẩm của sự kiến tạo xã hội, và vì thế cũng bị quy định chặt chẽ bởi các cấu trúc xã hội chứ không hề tự do và độc lập như chúng ta vẫn tưởng. Điều này dẫn đến kết luận rằng tác giả không phải là hiện tượng phổ quát và vĩnh cửu, mà thật ra chỉ là sản phẩm của một bối cảnh lịch sử nhất định. Althusser cho rằng văn chương không phải là tiếng nói cá nhân tác giả, mà là tiếng nói của các ý thức hệ. Roland Barthes thậm chí còn đi xa hơn khi tuyên bố trong Cái chết của tác giả (The Death of the Author) rằng “viết là sự huỷ diệt mọi giọng nói, mọi cội nguồn. Viết là cái không gian trung tính, phức hợp, xô lệch, trong đó cái chủ thể của chúng ta bị trượt đi, cái không gian tiêu cực nơi mọi bản sắc bị biến mất, bắt đầu là chính thực thể đang viết. Không nghi ngờ gì nữa, xưa nay vẫn thế. Một khi sự kiện không còn được kể lại nhằm tác động trực ti