Giới thiệu:
Gần đây mạng cảm biến nhúng được nghiên cứu ở nhiều nơi
và được bàn thảo ở nhiều diễn đàn. Để có cái nhìn đầy đủ về
mạng cảm biến nhúng chúng tôi xin giới thiệu bài viết sau
đây [1].
25 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mạng cảm biến Nhúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mạng cảm biến Nhúng
Giới thiệu:
Gần đây mạng cảm biến nhúng được nghiên cứu ở nhiều nơi
và được bàn thảo ở nhiều diễn đàn. Để có cái nhìn đầy đủ về
mạng cảm biến nhúng chúng tôi xin giới thiệu bài viết sau
đây [1].
Mạng cảm biến nhúng là mạng các máy tính nhúng triển khai
trong thế giới thực nhằm tương tác với môi trường. Các máy
tính trong vai trò những nút mạng cảm biến thực chất là một
kiểu vi mạch tích hợp có kèm các cảm biến và những thiết bị
chấp hành. Những vi mạch tích hợp này có kích thước rất bé
và giá tương đối rẻ. Các nút cảm biến được đặt gần đối tượng
cảm nhận và được kết nối thành mạng cho phép truyền dữ
liệu cho nhau, cùng làm công việc giám sát môi trường và có
thể tác động lại môi trường. Các nút mạng cảm biến hiện nay
thường ở dạng tĩnh, mặc dù chúng có thể gắn lên đối tượng
chuyển động hoặc tự chúng có thể chuyển động. Để có được
những tính chất này cần nhúng chương trình vào nút mạng để
nó có khả năng cảm nhận, chấp hành và truyền dữ liệu, đó là
sự khác biệt của mạng cảm biến với các
laptop dùng để tính toán hoặc các hệ thống cảm biến tập
trung truyền thống.
Việc nghiên cứu về mạng cảm biến bắt đầu từ những năm
1990 hoặc sớm hơn, tuy nhiên thực sự tăng mạnh từ năm
2000 trở lại đây. Vào lúc đó một nút mạng bao gồm CPU,
đầu đo và truyền nhận vô tuyến giá khoảng 1000$. Đến 2004
thì những nghiên cứu đã thực sự trở nên sôi động, các khuôn
dạng phần cứng, phần mềm được thiết lập tốt, những quan
tâm về thương mại gia tăng. Những lĩnh vực được quan tâm
nghiên cứu nhất là quân sự, khoa học và thương mại cho
những ứng dụng giám sát thuộc tính sinh học, nông nghiệp và
các quá trình công nghiệp.
Mạng cảm biến đối mặt với ba thách thức: mức tiêu thụ năng
lượng phải nhỏ; Cảm nhận và tương tác với thế giới vật lý thế
nào, làm việc theo thuật toán xử lý dữ liệu như thế nào để
khai thác sự phong phú, đa dạng bức tranh về môi trường;
Mạng phải tự cấu hình với quy mô hàng chục, trăm, nghìn
nút như một tổng thể.
Phần cứng.
Một phần cứng gồm vi điều khiển, đầu đo, thu phát vô tuyến
trên cùng nút mạng là sự thuận lợi cho mạng cảm biến cả
trong thương mại và nghiên cứu. Một nút mạng gồm CPU
+RAM, ROM + I/O + thu phát RF. Thường có 2 loại nút
mạng cảm biến, loại nhỏ với CPU 8 bit, 10-100KB RAM, và
loại lớn với CPU 32 bit, 100-1000KB ROM-Fash. Thí dụ loại
nhỏ là Mica-2 motes sử dụng Atmega128 embedded
processor, tốc độ nhịp 4MHz, 128KB Flash, 4KB RAM, 8-
channels ADC, 48 digital I/O lines, một UART và một giao
diện nối tiếp SPI. Các Motes đã phát triển hàng chục năm qua
tại đại học Berkeley, hiện nay là sản phẩm thương mại của
các công ty như Crossbow, Dust Networks, và Telos. Nhiều
viện nghiên cứu cũng chế tạo sản phẩm tương tự là Nymph từ
đại học Colorado [2], và BTnodes từ ETH Zurich [3])
Loại lớn như sản phẩm của Stargate (do Intel thiết kế theo
công nghệ Crossbow) hoặc Cerfcube (từ Intrinsyc). Các thiết
bị này được dùng trong nhiều ứng dụng nhúng, dùng làm
gateways để thu thập dữ liệu từ các nút hoặc cho các ứng
dụng đòi hỏi nhiều về việc xử lý tín hiệu.
Quản trị công suất là mối quan tâm đối với cả 2 loại nút
mạng nói trên. Để quản trị công suất phải điều khiển riêng
các thành phần phần cứng (CPU, RAM, Flash, radio,
sensors). Nguồn nuôi nút mạng thường là pin hoặc acquy và
nhu cầu cấp năng lượng bằng pin mặt trời hoặc từ nguồn
khác trở nên quan trọng.
Các cảm biến - Sensors
Cảm biến phải đồng thời được thu nhỏ kích thước như phần
vô tuyến (radios) và bộ xử lý (processors). Sự xuất hiện của
cảm biến dạng vi cơ điện tử (MEMS sensors) đáp ứng yêu
cầu này. Nhiều sensors dạng MEMS đã làm việc cùng các
nút mạng. Mặc dù có rất nhiều dạng sensor khác nhau nhưng
chúng đều có một nguyên lý thao tác như nhau: khi môi
trường thay đổi kéo theo sự thay đổi thuộc tính điện của các
vật liệu được chọn thích ứng. Các sensors kết hợp các mạch
điện để phát hiện sự thay đổi thuộc tính điện và được chuẩn
hóa để đo chính xác các hiện tượng môi trường tương ứng.
Thí dụ sensor nhiệt độ dựa vào sự thay đổi điện trở theo nhiệt
độ trong vật liệu đặc biệt. Việc lựa chọn vật liệu loại nào (từ
kim loại đến bán dẫn) là tùy theo yêu cầu về vùng cảm nhận
và độ nhạy. Cũng như vậy, một sensor ánh sáng sử dụng vật
liệu quang dẫn có đặc tính điện thay đổi theo lượng ánh sáng
chiếu vào. Các sensor gia tốc, đo điện thế sinh ra do sự biến
dạng cấu trúc của vật liệu áp điện, những biến dạng sinh ra
do rung động hoặc gia tốc.
Hiện có một nền công nghiệp to lớn dành cho việc chế tạo
các Sensors MEMS nhỏ bé. Công nghiệp này được chia theo
loại ứng dụng (thí dụ các công ty như Delphi chế tạo sensors
cho tự động hóa) hoặc theo loại sensor (thí dụ Silicon
Designs tập trung chế tạo sensors độ rung) và một số công ty
(thí dụ Ember và Millenial Net), chú trọng vào các ứng dụng
mạng cảm biến không dây.
3. Phần mềm
và các giao
thức -
Software
and
Protocols.
Sử dụng
phương pháp hệ thống để mô tả các thành phần hạ tầng mạng
cảm nhận mục đích chung kết hợp.
3.1 Kết nối mạng
Kết nối mạng là thành phần trung tâm của mạng sensor, nó
cho phép kết dính các nút riêng biệt để cùng hoạt động.
Trong mạng sensor thành phần vô tuyến tiêu thụ năng lượng
nhiều nhất trong từng nút mạng, chiếm khoảng 20-40% khi
tất cả các thành phần đều hoạt động. Tối ưu hóa thủ tục mạng
(giao thức -protocols) đưa đến tăng đáng kể thời gian sống
của toàn mạng. Như vậy có thể nghiên cứu các lớp mạng của
mạng cảm biến như thủ tục phân tuyến (routing), liên kết với
thủ tục điều khiển thâm nhập môi trường (MAC) và điều
khiển cấu hình là loại dịch vụ nằm giữa hai lớp kể trên.
Các thủ tục điều khiển thâm nhập môi trường (MAC
protocols)
Tiết kiệm tiêu thụ năng lượng nút mạng là sự quan tâm chính
của các thủ tục MAC. Các lý do tiêu thụ năng lượng liên
quan đến MAC là sự xung đột gói dữ liệu dẫn đến truyền lại,
là thăm dò môi trường (idle listening), là nghe lỏm các gói
gửi cho nút khác
(overhearing), là điều khiển lưu lượng (control trafic) bằng
cách duy trì tiêu đề gói (overhead). Trong số đó thăm dò môi
trường (idle listening) có thể là tiêu tốn năng lượng nhiều
nhất.
Chuẩn IEEE 802.11 có thủ tục MAC trên cơ sở cạnh tranh
(carrier-sense, multiple-access or CSMA) đã được phát triển
rộng rãi cho thương mại. Nó cung cấp tốc độ truyền thông
cao cho các máy tính laptop (lên đến 54Mbps). Tuy nhiên
802.11 ứng dụng cho truyền thông ngang hàng (peer-to-peer)
như đối với mạng sensor, thủ tục này hộ trợ rất ít cho việc tiết
kiệm năng lượng, ngoài ra mạng sensor có tốc độ bít thấp (cỡ
100kbps), nên thủ tục này không thích hợp cho những nút
sensor có nguồn năng lượng và kích thước nhỏ. Thoạt đầu
người ta ứng dụng thủ tục đa thâm nhập chia thời gian
(TDMA) cho mạng sensor. Nhờ cách lập lịch thâm nhập môi
trường nên tránh được xung đột, tránh nghe lỏm, tránh thăm
dò môi trường và như thế giảm được đáng kể tiêu thụ năng
lượng. Nhược điểm của thủ tục này là thừa nhận các nhóm
nút, gây sự mệt mỏi cho các nút đầu nhóm và việc di động
các nút gặp khó khăn.
Phần lớn mạng sensor có tốc độ dữ liệu khoảng 20 - 40kbps,
không cần đến 802.11 tốc độ cao và thủ tục phức tạp DMA.
Một thủ tục tượng tự MAC của 802.11 là PAMAS [4] tiết
kiệm được năng lượng bằng cách không nghe lỏm, hoặc như
S-MAC [5, 6] tiết kiệm năng lượng bởi không thăm dò môi
trường. S-MAC đồng bộ các nút trong lập lịch ngủ. Các nút
thức dậy định kỳ, cạnh tranh kênh truyền nếu có dữ liệu cần
gửi, sau đó thực hiện việc truyền dữ liệu hoặc ngủ tiếp. Nhờ
điều chỉnh khoảng thời gian ngủ, các chu kỳ làm việc chỉ
chiếm từ 1 đến 50% thời gian, vì vậy giảm được tiêu thụ
năng lượng do không thăm dò môi trường. Thủ tục T-MAC
sử dụng kiểu thăm dò thích ứng và yêu cầu gửi sau cho thông
lượng tốt hơn khi có nhiều gói phải gửi hoặc khi dữ liệu
truyền qua nhiều bước nhảy.
Hiện tại chuẩn IEEE 802.15.4 (còn gọi là chuẩn Zigbee) là
chuẩn hướng đến mạng sensor và các ứng dụng tự động nhà
ở. Nó có chu trình làm việc tự chọn cố định để tránh thăm dò
môi trường. Còn quá sớm để kết luận về thủ tục này, nhưng
chắc chắn một thủ tục chuẩn sẽ sớm được đưa ra thương mại
hóa.
Lớp mạng
Thông tin điều khiển (Overhead) là mối quan tâm lớn của thủ
tục phân tuyến mạng sensor. Nguồn overhead là các thông tin
điều khiển truyền như số lượng các thông báo cập nhật và
thông báo yêu cầu tuyến. Sau đây sẽ xem xét thủ tục phân
tuyến cho mạng ad-hoc trên thủ tục Internet và cơ cấu không
dựa trên IP. Người ta đang chuẩn hóa các thủ tục phân tuyến
ad hoc không dây dựa trên cơ sở IP. Các thủ tục phân tuyến
ad hoc được nhóm vào các thủ tục loại chủ động tính trước
các tuyến đến các nơi nhận, thí dụ DSDV, và thủ tục thụ
động chỉ tính các tuyến đến nơi nhận khi được thông báo về
tình hình tải của mạng, thí dụ AODV và DSR. Overhead điều
khiển truyền tỉ lệ thuận với tốc độ thay đổi liên kết. Riêng thủ
tục thụ động overhead phụ thuộc tốc độ truyền đến nơi nhận
mới. Các thủ tục thụ động phù hợp tốt với các mạng thay đổi
nhiều, thí dụ có nhiều nút di động. Với các mạng sensor có
các trạm tĩnh như hiện nay, sử dụng thủ tục chủ động là thích
hợp bởi vì các liên kết thỉnh thoảng mới thay đổi, sử dụng thủ
tục đó đơn giản, không có trễ do tìm tuyến.
Ngoài thủ tục phân tuyến dựa trên IP còn có thủ tục phân
tuyến địa lý và truyền trực tiếp dành riêng cho mạng sensor.
Thủ tục phân tuyến theo địa lý như GPSR và những thủ tục
tương tự, tuy xuất phát từ mạng có dây, nhưng đã khai thác
được đặc tính không gian của mạng sensor và của truyền
thông vô tuyến. Thủ tục truyền trực tiếp kết hợp thủ tục phân
tuyến chủ động như thủ tục vec tơ khoảng cách, với cơ cấu
phân tuyến theo thuộc tính và coi trọng xử lý dữ liệu trên
mạng. Các phương án truyền trực tiếp tạo ra một số phân
tuyến khác nhau theo cùng một giao diện.
Xử lý dữ liệu trên mạng hiệu quả là quan trọng đối với truyền
dữ liệu. Các thí dụ xử lý như nén đúp dữ liệu, tập hợp dữ liệu
và lọc thống kê. Khi dữ liệu được phát từ nhiều đầu đo, xử lý
dữ liệu trên mạng là tập hợp những dữ liệu ở những vị trí gần
nhau và lọc chứ không gửi tất cả đi, như thế giảm đáng kể
năng lượng tiêu thụ.
3.2 Các hệ thống
dịch vụ.
Các dịch vụ như hệ
điều hành, an ninh,
đồng bộ thời gian,
phát hiện tài
nguyên, có trong các mạng có dây và không dây truyền
thống. Riêng dịch vụ định vị là duy nhất của mạng sensor.
Các hệ điều hành và các công cụ phát triển mã.
Để truyền dữ liệu mạng sensor với thiết bị lớn có thể sử dụng
các hệ điều hành hiện có như Linux đối với các thiết bị lớn.
Hệ điều hành này hỗ trợ ở mức thiết bị cho các bộ điều khiển
nhúng, bộ nhớ Flash và những đặc điểm ngoại vi khác cho
những thiết bị này.
Mạng sensor với những thiết bị nhỏ đòi hỏi một hướng mới
trong thiết kế hệ điều hành. Thí dụ hệ điều hành nhiều chuỗi
theo POSIX hoặc TinyOS cho các nút mạng nhỏ (motes)
được sử dụng rộng rãi bởi nhiều nhóm nghiên cứu và nhiều
công đoạn công nghiệp, khác đáng kể mô hình nhiều chuỗi
truyền thống của hệ điều hành hiện đại. TinyOS dựa vào giả
định rằng hầu hết các ứng dụng mạng sensor là điều khiển sự
kiện, nghĩa là những ứng dụng có đáp ứng bởi những sự kiện
cảm nhận được từ ngoài.
TiniOS được cấu trúc bao gồm những thành phần (các modul
mềm cho phép phân biệt, hoặc thiết bị cứng hoặc chức năng
mềm như giao diện mạng truyền nhận), có thể yêu cầu sự
kiện trong các thành phần khác. Thông thường khi đáp ứng
một sự kiện hoặc một ngắt cứng, một chuỗi các mời gọi
thành phần được sử dụng để xử lý sự kiện. TinyOS còn cung
cấp chức năng cho phép các thành phần sử dụng hiệu quả
processor không thao tác tính toán và cho phép lấy một thành
phần để thực hiện thao tác (như gửi thông báo mạng, hoặc
lập một số thông số thiết bị). Những chức năng này cho phép
người lập trình viết một ứng dụng như một biểu đồ thành
phần (component graph): các nodes trong biểu đồ này là
những thành phần, và các kiên kết đánh dấu sự kiện và yêu
cầu lệnh từ những thành phần hoặc những tác vụ liên quan
với nó. Tầm quan trọng chương trình điều khiển sự kiện là
tránh sử dụng bộ nhớ chạy thời gian thực tác vụ mỗi chuỗi.
Như vậy thúc đẩy mạnh chức năng tái sử dụng mã, cải thiện
đặc điểm modul hóa (tái sử dụng các thành phần dễ hơn) và
tối thiểu kích thước mã đối tượng cho thiết bị có bộ nhớ hạn
chế. Cùng với TinyOS là ngôn ngữ chương trình nesC, cấu
trúc ngôn ngữ bậc cao cho các rút gọn của TinyOS: những
thành phần, các tác vụ, các sự kiện và các lệnh. Ngoài ra
người ta còn sử dụng một số bộ công cụ mô phỏng và mô
hình hóa cho phép phát triển mã, gỡ rối và đánh giá hệ thống.
Phần mềm mô phỏng mạng mục đích chung như ns-2 và sự
mở rộng không dây của nó được sử dụng rộng rãi để phát
triển và đánh giá các thủ tục phân tuyến mạng sensor. Hiện
nay, các chương trình mô phỏng riêng cho mạng sensor được
sử dụng nhiều. Thí dụ TOSSIM cho phép các nhà phát triển
mô phỏng mạng motes và chạy ứng dụng thực và mã thủ tục
trên mạng này. Chương trình Emstar là môi trường chương
trình cho thiết bị lớn, cho phép mô phỏng mạng lai giữa thiết
bị lớn - bé và mô hình lan truyền vô tuyến chung.
Định vị nút.
Định vị là chức năng các nút mạng tự xác định vị trí của nó
theo 2 hoặc 3 hướng. Đây là một dịch vụ chính yếu của mạng
sensor, vì vị trí cung cấp thông tin vô giá về dữ liệu cảm nhận
mong đợi. Gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về định vị
mạng sensor và mạng thiết bị nhúng.
Sự hội tụ của các công trình này vào việc đánh giá khoảng
cách giữa các nút sensor (ranging) - gọi là khoảng truyền. Có
2 loại kỹ thuật đánh giá khoảng truyền: khoảng truyền dựa
vào RF và khoảng truyền dựa vào sóng âm. Khoảng truyền
dựa vào RF căn cứ trên việc đo cường độ tín hiệu nhận để nơi
nhận xác định khoảng cách từ nó đến nơi truyền, với giả thiết
lan truyền RF trong môi theo mô hình mất mát đường đơn
giản với những thông số đã biết. Sử dụng kỹ thuật này các
nút đánh giá được khoảng cách tới tất cả các nút láng giềng
trong vùng vô tuyến với sai số 10% của vùng vô tuyến thông
thường.
Kỹ thuật đo khoảng cách dựa vào tín hiệu sóng âm thanh
hoặc siêu âm sử dụng trải phổ của phản xạ đa đường và chính
xác hóa trong điều kiện tác động những thành phần hệ thống
khác, đạt được độ chính xác cao hơn (sai số khoảng 1 - 2%
trong vùng 3 - 6 m).
Đồng bộ thời gian.
Mạng cảm biến khởi động các nút cùng làm việc để phát hiện
sự kiện, việc đồng bộ thời gian để đọc cảm nhận tương quan
giữa các nút mạng là cần thiết. Vấn đề đồng bộ thời gian nút
mạng là đánh dấu thời gian thông báo ở cả nơi nhận, nơi gửi
và làm cân bằng nhịp của nó trên cơ sở trao đổi một hoặc
nhiều thông báo. Giữa việc gửi và nhận thông báo có các loại
trễ như: trễ xử lý nơi gửi, trễ truyền thông báo, trễ lan truyền
thông báo, trễ xử lý nơi nhận. Kỹ thuật đồng bộ thời gian
khác nhau về cách đánh giá độ trễ và cách triệt tiêu nguồn
gốc trễ.
Phát hiện tài nguyên.
Phát hiện tài nguyên là vấn đề của tính toán khắp nơi
(ubiquitous computing) - khi thiết bị được đưa vào một miền
nào đó, làm sao nó biết được tài nguyên cục bộ liên quan.
Mạng
sensor chủ yếu là những ứng dụng riêng biệt và đồng nhất
nên không có nhu cầu chia sẻ dịch vụ, nó có chức năng kết
hợp thu thập dữ liệu trực tiếp với phát hiện tài nguyên và
phân tuyến.
Cơ sở dữ liệu và các dịch vụ lưu trữ dữ liệu.
Các nút mạng sensor đọc dữ liệu và cùng trao đổi dữ liệu đọc
với nhau. Tập hợp dữ liệu đọc và sự kiện được xem là dữ liệu
của nút. Cơ cấu để hồi phục dữ liệu này như thế nào là một
thách thức thiết kế. Những thủ tục thu thập trực tiếp là truyền
thông tập trung dữ liệu, xem như nguyên tắc thiết kế cho cơ
cấu mức thấp để xử lý dữ liệu sensor. Mức cao hơn phải là
một mô hình tự nhiên thâm nhập dữ liệu, xem mạng sensor
như cơ sở dữ liệu liên quan phân tán.
3.3 Các nguyên tắc ứng dụng.
Các hiện tượng tự nhiên chia thành 2 loại: một loại có tính
khuyếch tán như lửa, mây, chất độc, và loại khác có tính
chất điểm như thú vật, xe tăng, hoặc các mục tiêu khác. Phát
hiện và theo dõi phạm vi của hiện tượng là một vấn đề quan
trọng đặc biệt là các ứng dụng hiện tượng điểm. Cảm nhận
nhằm 2 mục tiêu: định vị đích và giám sát vết. Tìm vết là cập
nhật đường đi của đích khi nó chuyển động. Cả 2 vấn đề này
đều được nghiên cứu trong ngữ cảnh mạng sensor.
Với hiện tượng khuếch tán, không gian mở rộng lớn hơn
không gian cảm nhận trung bình, vì vậy quan trọng là phát
hiện và giám sát giới hạn hiện tượng. Giám sát vết là cập
nhật đường đi của đích khi nó chuyển động. Thể hiện vết của
đích là tuần tự liên tiếp vị trí của nó theo thời gian. Muốn vậy
phải gửi liên tiếp đều đặn thông tin vị trí đích về nút cơ sở.
Phương pháp này chịu một giá thành truyền thông lớn, một
kỹ thuật khác thay thế là chuyển giám sát tới các nút cảm
nhận trên đường về đích. Phương pháp này còn hiệu quả
năng lượng bởi nó đánh thức cảm nhận theo hướng đích đến.
Kỹ thuật này phải tiên đoán tuyến đích. Cấu trúc mạng phải
tập trung theo hướng thông tin để giải quyết vấn đề này và
đòi hỏi duy trì cập nhật liên tục trạng thái vị trí đích.
Với định vị đích, sử dụng phương pháp điểm gần nhất, tức là
nơi sensor phát hiện thấy biểu hiện đích mạnh nhất. Có nhiều
thuật giải chỉ ra đích ở trọng tâm của tất cả các sensor cảm
nhận đích. Độ chính xác phụ thuộc nhiều ở mật độ triển khai.
Còn một phương pháp khác phức tạp, gọi là tam giác vị trí
đích
(triangulating) dựa vào sai khác đỗ trễ tín hiệu nhận tại một
nhóm sensor trong mạng.
4. Các ứng dụng
Người ta đang nghiên cứu các nguyên lý chung để mạng
WSN sử dụng cho những mục đích khác nhau. Sau đây sẽ
điểm qua những ứng dụng trong quân sự, khoa học, môi
trường và trên những vùng chưa từng có trước đây của mạng
WSN.
Các ứng dụng quân sự: Đã có những chương trình như
sensIT DARPA thực hiện việc bảo đảm an ninh môi trường
như phát hiện người thâm nhập, giám sát xe cộ trên đường
hoặc các vùng mở. Cũng có nhiều nghiên cứu chứng minh hệ
thống bắn tỉa trên cơ sở WSN.
Các ứng dụng giám sát môi trường: trong lĩnh vực sinh học
và khoa học sự sống, những đề tài cảm nhận chi tiết và dài
ngày có thể thực hiện. Khi đó thuộc tính được quan tâm
nhiều là truyền thông mạng WSN. Ngoài ra với các thông số
đơn giản như nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm, âm thanh trong
một vùng nhỏ giám sát chúng là một ứng dụng đơn giản của
mạng WSN và không thể vắng mạng WSN, bởi vì muốn thu
được nhiều thông số như vậy con người không thể làm thủ
công, trong khi đó giám sát tập trung và có dây không khả thi
vì các đối tượng giám sát nằm trên địa bàn rộng, phân tán.
Những nhà sinh học biển sử dụng mạng WSN để thu dữ liệu
trong một không gian rộng. Họ cần nhiều dữ liệu nhưng thiết
bị là không đủ và đắt. Ứng dụng mạng WSN trong ngữ cảnh
này sẽ thu thập dữ liệu phong phú và chất lượng cao. Mạng
WSN còn giúp các kỹ sư xây dựng mô hình chính xác về sự
rò rỉ chất độc vào trong đất và qua đó tiên đoán rò rỉ vào các
nguồn nước ngầm. Như vậy mạng WSN giúp giám sát khu
công nghiệp đánh giá sự rò rỉ sự ô nhiểm vào đất.
Ứng dụng trong thương mại và đời sống: đo sự rung động
của động đất trong một vùng không gian rộng và đánh giá
ảnh hưởng của nó lên các công trình xây dựng và cầu cống.
Có thể dùng WSN để giám sát các cấu trúc như đo độ rung
của công trình xây dựng (nhà cửa, cầu cống, thuyền bè), sự
thay đổi các đáp ứng này theo thời gian và vị trí của các hư
hỏng.
Giám sát giao thông thành phố bằng mạng cố định, tập trung
trên cơ sở truyền thống là một đầu tư lớn. Mạng WSN có thể
giải quyết theo 2 cách: giám sát giao thông nhanh chóng bằng
cách tập hợp dữ liệu thời gian để phát triển và nghiên cứu
trong không gian không cho phép nghiên cứu dài hạn.
Phương pháp khác là gắn nút mạng lên các xe bus, chúng có
thể truyền thông