Thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của mọi người, khác với các
sản phẩm khác, tất cả mọi người đều phải sử dụng chúng
hàng ngày, và chất lượng của chúng ảnh hưởng trực tiếp tới
sức khoẻ của người tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều
vấn đề tồn tại trong ngành gây ra hàng loạt các vụ bê bối
khiến cho người tiêu dùng hoài nghi về chất lượng của các
sản phẩm thực phẩm hơn
20 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mạng cảm biến và công nghệ thực phẩm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mạng cảm biến và công
nghệ thực phẩm
Thực phẩm là nhu cầu thiết yếu của mọi người, khác với các
sản phẩm khác, tất cả mọi người đều phải sử dụng chúng
hàng ngày, và chất lượng của chúng ảnh hưởng trực tiếp tới
sức khoẻ của người tiêu dùng. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều
vấn đề tồn tại trong ngành gây ra hàng loạt các vụ bê bối
khiến cho người tiêu dùng hoài nghi về chất lượng của các
sản phẩm thực phẩm hơn.
1. Những
vụ bê bối
trong công
nghiệp thực
phẩm
Bắt đầu từ
khâu sản xuất, khi tìm ra chất dioxin, nguyên nhân gây bệnh
ung thư có trong thức ăn cho gia súc buộc chính phủ Bỉ phải
chính thức ban hành lệnh cấm cấm: thịt lợn, thịt bò, gà và các
sản phẩm từ trứng vào năm 1999, và trang trại Irish Oyster bị
buộc đóng cửa sau khi tìm thấy virut Norwalk-like nguyên
nhân làm bùng nổ bệnh viêm dạ dày tại Hồng Kông. Vấn đề
không dừng lại đó, khi các nhà phân phối cũng chính thức bị
buộc tội trong một vài vụ bê bối, vào năm 2002,
NorgesGruppen, công ty chuyên bán buôn và bán lẻ hàng đầu
trong ngành thực phẩm tại Nauy, đã có một tiếng xấu khi tìm
thấy 5 trong số nhiều siêu thị đang bán thịt quá hạn. Một
trong số đó đã bị loại bỏ sau khi thanh tra y tế đã tìm thấy các
nhân viện cửa hàng cách đã làm lượng thịt từ các sản phẩm
hết hạn. Thiệt hại mà các vụ bê bối mang lại không còn là
hàng tỷ Euro mà còn đánh mất lòng tin của người tiêu dùng
Ngày nay, người tiêu dùng luôn cảnh giác hơn với những gì
họ mua và sử dụng. Ngay cả công ty, nhà cung cấp dường
như không liên quan tới các vụ bê bối cũng buộc phải điều
chỉnh. Các chuyên gia ẩm thực thực sự lo lắng khi niềm tin
của người tiêu dùng càng ngày giảm sút, và thực sự cần phải
có một khuôn khổ về pháp lý trong ngành công nghiệp thực
phẩm để bảo vệ người tiêu dùng. Chính vì vậy, hiệp hội các
nước châu âu đã đưa ra nhiều khung pháp lý về sản phẩm
thực phẩm, mức độ cho phép của các chất màu và dioxin
trong thực phẩm trong những năm gần đây. Cần lưu í rằng
các quy định đó áp dụng trực tiếp vào nhiều khâu trong chuỗi
thực phẩm: trồng trọt, sản xuất, vận chuyển, và phân phối.
Những sai sót, thiếu cẩn thận, thiếu trách nhiệm và gian lận
của con người chính là nguyên nhân của các vụ bê bối đó.
Cảm biến thông minh không dây đưa ra giúp ngăn chặn
những thiếu sót đó và cho một cách quản lý hợp lý. Bằng
cách áp dụng cảm biến thông minh giúp phát hiện mầm mống
gây bện, vi khuẩn, và những tác nhân tiềm tàng có thể gây
bệnh do hành động sơ xuất và thiếu trách nhiệm. Mặt khác,
với những vị trí lắp đặt của cảm biến giúp các thanh tra thực
phẩm và y tế có thể tóm gọn những hành động thiếu đạo đức.
2. Ứng dụng khoa học vào công nghệ thực phẩm.
Một câu hỏi đặt ra: bằng cách nào nền công nghiệp thực
phẩm đưa ra các hệ thống thông tin cho người sử dụng một
cách dễ dàng?
Thông thường các thông tin có được chủ yếu từ những hoạch
định nguồn lực của doanh nghiệp. Tuy nhiên, gần đây các
công ty đã bắt đầu sử dụng các thiết bị di động như là PDAs
và công nghệ không dây như là 802.11 để cung cấp các giải
pháp tìm kiếm nguồn gốc và phân phối trong các lĩnh vực
khác nhau như tìm nguồn gốc và phân phối. Đáng chú ý là
việc kết hợp phần mềm quản lý chu kỳ sống của sản phẩm
với RFID làm tăng lợi ích của phần mềm và cho một địa chỉ
thực phẩm an toàn. Và phần mềm ERP được thiết kế cho
quản lý hoạt động trong kinh doanh.
Tuy nhiên, thực sự không đủ cho ngành công nghiệp khi bất
kì một quá trình xử lý thực phẩm đều phụ thuộc vào các nhà
cung cấp và môi trường bên ngoài. Và những nhiệm vụ then
chốt trong sản xuất thực phẩm vẫn tiếp tục thực hiện bằng
tay: người nông dân vẫn dùng dụng cụ đo nhiệt độ bằng tay
trên các cánh đồng thay vì sử dụng các cảm biến nhiệt độ, và
các nhà khoa học vẫn sử dụng các thiết bị cầm tay để kiểm
tra sự của các chất gây ô nhiễm. Công nghệ di động là một
nhân tố quyết định trong việc cung cấp một giải pháp phần
mền tự động hóa cho công nghệ thực phẩm, hiện nay các giải
pháp chỉ cung cấp lương thực thực phẩm bằng nhãn và nhãn
mác của sản phẩm. Vấn đề cốt lõi là cần một hệ thống theo
dõi thực sự tốt để có thể kiểm tra thực phẩm, song điều đó là
chưa đủ trong khi hiện nay những thực phẩm đó vẫn chưa
được ngăn chặn. Cảm biến thông minh cung cấp địa chỉ an
toàn trở thành một vấn đề
sống còn
3. Mạng cảm biến thông
minh
Khả năng ứng dụng hệ
thống cảm biến thông
minh đã thay đổi phạm vi
ứng dụng từ vườn nho
cho tới các thiết bị chính.
Khả năng giao tiếp giữa hệ thống cảm biến thông minh với
các hệ thống khác đã được trích dẫn trong cuốn Hac (thiết kế
mạng cảm biến không dây) ở đó Bluetooth được đưa ra như
một chuẩn giao tiếp giữa các cảm biến. Một phương án khả
thi là đưa ra một chuẩn phù hợp với những sản phẩm thiết bị
điện nhỏ hơn như điện thoại di động, máy ảnh kỹ thuật số
một điều có thể mong đợi. Ngoài ra, công nghệ không dây
Zigbee đưa ra giải quyết vấn đề giao tiếp giữa các cảm biến
nội bộ.
Giao diện bên ngoài cung cấp bởi Crossbow cho phép cảm
biến giao tiếp với các thiết bị điện khác như PCs, máy tính
xách tay và PDAs. Một dữ liệu nào từ các thiết bị đều có thể
truyển đến một mạng bất kì. Hỗ trợ cung cấp cho các phát
hiện này truyền dữ liệu thông qua Java API cung cấp bởi diễn
đàn TinyOS mã nguồn mở. Mạng lưới các cảm biến đã được
thừa nhận như một sự phần hình thành nhanh chóng của công
nghiệp công nghệ. Một phần lý do là ứng dụng rộng rãi của
nó.
4. Mạng cảm biến thông minh và công nghiệp thực phẩm
Lợi ích tăng lên 1 bậc được khi chứng minh bằng việc sử
dụng cảm biến cho phát hiện sinh vật học và xúc tác hóa học.
Không nghi ngờ an toàn là một vấn đề cấp bách và ứng dụng
rõ ràng của mạng cảm biến đặc biệt sự phát hiện chất gây ô
nhiễm trong chuỗi cung ứng thực phẩm. Năm 1999, cuộc
khủng hoảng Bỉ đã có thể chắc chắn ngăn chặn được nếu
thực sự tồn tại công nghệ phát hiện dioxin trong sản phẩm từ
thức ăn của động vật.
Việc xem xét kĩ lưỡng nguồn EU rõ ràng là một điều cần
thiết, chính vì vậy EU đã áp đặt nhiệm vụ nặng nề lên các
nhà sản xuất thực phẩm. Một yêu cầu then chốt cho sản xuất
là qui định số 178/2002(cộng đồng các nước châu Âu) yêu
cầu các nhà sản xuất giữ các bản ghi chép một cách chi tiết
trong quá trình cung cấp chuỗi thực phẩm.
Xung quanh các yêu cầu ghi nhãn và mã vạch cho một lô sản
phẩm và có thể dễ dàng thu hồi đối với những sản phẩm có
vấn đề. Không chỉ tốt cho những người tiêu dùng, nó còn tốt
cho những nhà sản xuất và người bán lẻ khi sản phẩm có thể
bị thu hồi trong kiểu cách đúng lúc hơn. Đó là điểm then chốt
luật pháp không có nhiệm vụ công khai các sản phẩm thu hồi
nếu quá trình đó xảy ra trước khi sản phẩm đưa ra thị trường
vì vậy các công ty có thể ngăn chặn những quảng bá quảng
bá thất bại và hủy hoại danh tiếng của họ.
Tuy nhiên, đó là những vấn đề với nhãn mác và mã vạch cái
có thể làm giảm hiệu quả của họ. Mã vạch và nhãn mác là
những vạch ngắn và có thể không đọc được nếu chúng bị phá
hủy hoặc bị bẩn và một giải pháp đưa ra là sử dụng nhãn
RFID. Nhãn RFID về cơ bản là cảm biến có chứa một ID cho
sản phẩm hoặc một lô sản phẩm. Nhãn có phạm vi dài và từ
khi chúng ta có công nghệ radio có thể gắn lên chất dẻo. Tất
nhiên, từ khi chúng ta cảm nhận chúng có thể là một phần
của mạng lưới cảm biến. Roberti giải thích tại bằng cách nào
hải quân Mỹ đã sử dụng RFID như một phần mạng lưới cảm
biến cho việc giáp sát áp suất, nhiệt độ và độ ẩm vận chuyển
các bộ phận của máy bay bằng contener. Điểm nổi bật của
Roberti cũng có thể cung cấp cho công nghiệp thực phẩm.
Rất nhiều sản phẩm yêu cầu theo dõi khắp nơi trong chuỗi
cung ứng thực phẩm. Điều này không chỉ là việc tuân thủ các
mục đích nhưng cũng để chắc chắn cơ quan bảo vệ chất
lượng yêu cầu cho người bán lẻ được đáp ứng. Ví dụ, chuỗi
làm lạnh đòi hỏi việc làm lạnh sản phẩm là nhà kho với nhiệt
độ không đổi từ khâu phân phối cũng như bảo quản sản
phẩm. Đặc điểm của mỗi một lô sản phẩm được kiểm tra bởi
những người bán lẻ khi hàng đến nơi và bị loại bỏ nếu không
được bảo quản đúng theo nhiệt độ yêu cầu. Đến nay, chỉ giải
quyết các vấn đề của nhiều các công ty nhỏ đã đưa ra hướng
dẫn định kỳ đọc nhiệt độ. Với sự ra đời của mạng cảm biến là
hiện tại có thể đưa ra một giải pháp sản xuất theo đó là sự
thông báo gần như ngay lập tưc nếu nhiệt độ không thành
công các thông số bên ngoài có thể chấp nhận được
5. Mạng cảm biến và những người trồng trọt
Các công ty chế biến thực phẩm chỉ là một phần trong công
nghiệp thực phẩm và mạng cảm biến không chỉ là các nhà
sản xuất mà những người trồng trọt cũng có yêu cầu tương
tự. Một ví dụ tiêu biểu là mạng cảm biến áp dụng trong việc
trồng nho nhờ công nghệ vi mô của trung tâm nghiên cứu
hợp tác Australia và Motorola đã có vườn nho thông minh.
Nhờ hệ thống mà yếu tố cần thiết cho người trồng trọt như:
tốc độ và hướng gió, nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm không khí, độ
ẩm đất trồng, tình trạng ẩm ướt của lá đã được cảm biến đo
đạc nhờ đó đã đem lại lợi ích rất lớn cho người trồng nho khi
có thể điều chỉnh các yếu tố quyết định trong chất lượng rượu
vang.
Như vậy vai trò của hệ thống là rất lớn, không chỉ đem lại
thông tin chính xác giúp cho người trồng có thể giám sát cây
trồng mà còn giải quyết vần đề các tác nhân xấu như là rệp,
sâu bọ, côn trùng hút chất từ quả nho, kết quả sự thối rữa của
cây.
Nhờ tính chất phổ biến của truyền dẫn sóng radio trong mạng
cảm biến cũng rất quan trọng. Chính vì thế vấn để áp dụng
cảm biến trở nên dễ dàng hơn chỉ cần chúng trong phạm vi
cần thiết. Một lợi thế nữa đó là giá cả. Cảm biến khí hậu
thông thường rất đắt chính điều đó đã hạn chế việc sử dụng
chúng từ phần lớn người trồng và sau đó là việc áp dụng
trong qui mô nhỏ.
Đặc điểm trên hết của mạng cảm biến không chỉ hữu ích cho
những người trồng nho. Bất kỳ người trồng loại hoa quả nào
như: ngũ cốc, rau và cây củ cải cũng có nhu cầu tương tự.
Chính vì vậy, khả năng ứng dụng của mạng cảm biến ngày
càng được mở rộng .
Tuy nhiên, hiện nay các vấn đề theo dõi các cánh đồng hiện
tại được điều khiển bằng tay và có phần nền tảng đặc biệt.
Đôi khi, đó là những vấn đề phức tạp đem đến những yêu cầu
đặc biệt trên cánh đồng. Việc trồng nấm là một ví dụ, có rất
nhiều yêu cầu đặc biệt trong nhóm ánh sáng, nhiệt độ và
luồng khí và phải được đo bằng tay những thuộc tính của
chúng. Việc triển khai mạng lưới các cảm biến thông minh đã
làm tăng hiệu quả rất lớn trong quá trình trồng.
6.1 Mạng cảm
biến trong sản
xuất rượu vang
Việc triển khai dễ
dàng và nhanh
chóng nhất của
mạng cảm biến là
trong công nghiệp
sản xuất rượu vang.
Tuy nhiên, đó có
những thành công khác, như bằng cách nào cánh đồng nho
Pickberry tại Sonoma, California đã có thể quản lý vấn đề
phát triển cây trồng của mình thông qua việc sử dụng mạng
cảm biến cung cấp bởi Accenture Labs. Từ viễn cảnh của
việc trồng nho cảm biến có thể đước sử dụng để theo dõi độ
ẩm của đất trồng, lượng mưa, vận tốc và hướng gió, và
không khí và nhiệt độ của đất. Việc theo dõi các nhân tố có
thể quyết định giá thành quản lý cho vườn nho.Ví dụ, phát
hiện có sương ngay lập tức các cách ngăn ngừa sự mất mát
của cây trồng. Tất cả trở nên quan trọng hơn khi điều đó
mang lại cho Pickberry, giá một tấn nho có thể từ 1000-
4000$ US .
Tuy nhiên, trong khi tất cả tập trung vào việc sử dụng mạng
cảm biến cho việc trồng nho, đó chỉ đơn thuần là một giai
đoạn trong quá trình sản xuất rượu vang bằng cách sử dụng
cảm biến thông minh có thể đóng một vai trò vô cùng quan
trọng.
Ví dụ, nhiệt độ phải được điều khiển hòa toàn trong quá trình
sản xuất rượu vang. Điều này là để cho nấm men bám vào
nho nó có thể ăn trên đường đi sản xuất rượu- muốn có rượu
trắng nhiệt đỏ phải từ 15 -20°C quá trình lên men, muốn có
rượu vang đỏ men đòi hỏi nhiệt độ từ 25-30°C. Hơn nữa, để
điều chỉnh quá trình lên men quá trình có sự xuất hiện của
SO2 phải được thêm vào nhưng điều được kiểm tra phù hợp
với hướng dẫn của các nước châu Âu. Cảm hiến thông minh
có thể đóng một vai trò rõ ràng trong quá trình lên men được
hay không điều đó là nhiệt độ hoặc giám sát SO2. Tuy nhiên,
hai ví dụ trên là một trong nhiều khả năng sử dụng mạng lưới
cảm biến trong sản xuất rượu vang và cảm biến thông minh
đóng vai trò trong mọi công đoạn từ phát hiện axit Maclic tới
tannins.
Công đoạng cuối cùng trong quá trình sản xuất tất nhiên là
lưu trữ. Một lần nữa cảm biến được sử dụng trong hầm chứa
rượu. Sự triển khai cảm biến một cách ngẫu nhiên cũng đã có
tiềm năng sử dụng cho việc phát hiện cái gì là thường được
gọi là 'corkage' (tiếp xúc không khí với rượu nho không thể
thiếu việc đóng nút chai) trong chai hoặc mẻ rượu mang.
6.2 Mạng cảm biến trong chuỗi làm lạnh
Một nhiệm vụ khó khăn nhất cho ngành công nghiệp thực
phẩm là làm sản xuất thực phẩm đông lạnh, cụ thể là thịt và
thịt gia cầm. Nhiệt đô phải được duy trì ở mức độ không đổi
từ đầu quá trình cho đến cuối cùng trưng bày bởi người bán
lẻ. Tuy nhiên, chuyển bước từ sản xuất tới việc bán, ngày nay
điều này đã trở thành điều phiền hà mặc dù đó là yêu cầu cốt
lõi để có được sản phẩm đông lạnh tốt. và vấn đề giới hạn về
tiền bạc đầu tư cho dây truyền làm lạnh. Liên quan chặt chẽ
việc làm lạnh ban đầu để loại bỏ nhiệt từ thịt cho đến khi nó
có thể được chế biến hoặc được vận chuyển.
Tuy nhiên, nơi có sự khác biệt đáng chú í nhiệt độ bề mặt của
thịt và nhiệt độ sâu bên trong. Trước đây sản phẩm làm lạnh
được cắt, băm, bọc hoặc chế biến sau đông lạnh phải mang
đến một nơi khác để đảm bảo độ tươi sống cho sản phẩm một
lần nữa tại nhiệt độ không đổi trong suốt quá trình vận
chuyển.
Những cuộc nghiên cứu đã chỉ ra rằng làm lạnh sơ cấp và thứ
cấp là vấn đề quan trọng cho việc duy trì thời gian bảo quản.
Trong cuộc nghiên cứu nó đã chỉ ra rằng việc đóng gói thịt
bò trong chân không cho kết quả bình quân 25% thời gian sử
dụng, 2 tuần thay vì 8 tuần. Đó là lý do một số nhà máy bao
gồm việc chở thịt trong vận chuyển ở nhiệt rất cao và không
hoàn toàn lạnh trong hộp thịt do sự chuyển động của không
khí ít.
Đó rõ ràng là một cơ hội cho mạng cảm biến trong việc làm
lạnh sơ cấp và thứ cấp, không chỉ theo dõi nhiệt độ mà còn
theo dõi dòng khí. Hiện nay, mặc dù ý định tốt nhất của các
nhà sản xuất vấn có thể xảy ra lỗi rất cao. Không chỉ là rủi ro
cho người tiêu dùng nhưng nó cũng gây lãng phí nếu hạn sử
dụng giảm đi ¼ độ tươi.
Làm lạnh sơ cấp và thứ cấp được làm tại các nhà máy nhưng
không chỉ có 2 bước trong chuỗi. Việc làm lạnh khi vận
chuyển, nhiều hàng hóa quy định sự phân bố không khí một
cách tương xứng. Nó có thể được chú ý khi các đơn vị làm
lạnh không làm lạnh thực phẩm. Thay vào đó họ duy trì ở
nhiệt độ mà tại đó họ đã được nạp trước. Điều đó tương tự
yêu cầu cho tắt nguồn lạnh, trung tâm phân phối, trung tâm
và người bán buôn và tất nhiên người bán lẻ .
Trong khi làm lạnh sơ cấp và thứ cấp là trách nhiệm nhà
quản lý, bản chất của sản xuất là không có sự điều khiển một
hàng hóa. Cuối cùng thì, bất kì một lỗi trong chuỗi làm lạnh
sẽ phá hủy danh tiếng của nhà sản xuất thực phẩm đông lạnh
thậm chí ngay cả khi lỗi đó do người thứ 3. Tuy nhiên, sự ủy
nhiệm của người sử dụng của mạng cảm biến để theo dõi
nhiệt độ và dòng chảy không khí trong những bước khác
nhau trong quá trình xử lý có thể đóng một vai trò quan trọng
trong việc theo dõi chất lượng của thực phẩm và có thể giúp
ngăn chặn hàng hóa bị hỏng trước khi đến tay người tiêu
dùng.
7. Những đòi hỏi trong hệ thống công nghiệp thực phẩm
Công nghiệp thực phẩm bao gồm xử lý rất phức tạp và có
nhiều chi tiết được quy định. Sự tương phản là một phần hệ
thống thông tin muốn phần mền thật sự dễ dàng cho người sử
dụng. Bất kì cảm biến trong hệ thống cũng điều hướng tới
công nghiệp thực phẩm sẽ triển khai dễ dàng. Quá trình xử lý
thực phẩm đã không chú ý đến cấu trúc của cảm biến, giao
diện của chúng và phần mềm attendant cho việc phân tích dữ
liệu. Hệ thống phải làm việc theo đúng nghĩa “ ra khỏi hộp”.
trong khi điều đó được thừa nhận là một mục tiêu khó khăn
cho bất kì công nghệ nảy sinh, đó là vấn đề quyết định cho sự
thành công của hệ thống mạng cảm biến trong công nghệ
thực phẩm. Tuy nhiên, vấn đề triển khai là một thách thức,
cảm biến giám sát đo đạc thông minh yêu cầu thực tế. Đo
lường mang tính quyết định như nhiệt độ, tốc độ gió, độ ẩm,
thực sự đã được phục vụ cho và có rất ít trong đó là mới. Mở
ra một đề tài nghiên cứu sự phát triển của cảm biến là khả
năng đo đạc các thành phần đặc biệt hoặc dặc trưng về số
lượng hoặc phần trăm chứ không chỉ là phát hiện sự tồn tại
của chất đó. Ví dụ nó không chỉ sử dụng có hay không đá vôi
trong đất mà còn cho kết quả phần trăm đá vôi trong đất.
Tương tự , thực phẩm nhiễm dioxin như sữa không thể được
thử bằng cảm biến thông minh ngay lúc đó, các thông tin
quan trọng cho chương trình đảm bảo chất lượng và phải
được thực hiện hầu hết bằng tay cho phần lớn các bộ phận.
Điểm quan tâm khác về công nghiệp thực phẩm là nó sử
dụng tương đối ít các phần mền và tương đối chung. Tín hiệu
từ một cảm biến bất kỳ trong mạng phải chuyển đổi dễ dàng
cho phần mền thứ ba như MS Excel và SAP. Do đó, bất kỳ
một hệ thống nào cũng ở trạng thái mở và dễ dàng sử dụng
hoặc thậm chí có chức năng tự động xuất sang phần mềm
khác.
8. Kết luận
Mạng cảm biến có vô số khả năng sử dụng. Công nghệ thực
phẩm mang đến nhiều cơ hội cho cả những nhà cung cấp
phần mền và phần cứng dựa vào nó cần phần mền cho việc
theo dõi phù hợp, mạng cảm biến bao gồm rất nhiều cảm
biến thông minh có thể hoạt động
Tuy nhiên, sử dụng hệ thống rất phức tạp và khó khăn, nếu
không cẩn thận sẽ không thành công trong ngành công
nghiệp này và cũng sẽ “đóng cửa” hệ thống khi gặp khó khăn
trong việc xuất, xử lý và phân tích dữ liệu.