Mấy suy nghĩ về vấn đề kiểm soát cơ quan hành chính nhà nước với mục đích bảo đảm quyền công dân

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI KIỂM SOÁT CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN: Quyền của công dân Việt Nam được Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định rõ ràng và các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa tạo điều kiện cho việc thực hiện. Bảo đảm quyền công dân đòi hỏi có một cơ chế trong đó mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội trong mối liên hệ thống nhất cùng tạo điều kiện, phương tiện, biện pháp nhất định để quyền công dân thực hiện được trong thực tế. Trong cơ chế phân công quyền lực nhà nước, nếu như Quốc hội quyết định những vấn đề cơ bản về quyền công dân, bảo đảm thực hiện quyền công dân bằng hoạt động lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước thì các cơ quan hành chính nhà nước tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống bằng hoạt động điều hành, quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vai trò bảo đảm quyền công dân của cơ quan hành chính nhà nước thể hiện ở chỗ, cho dù hệ thống luật và các quy định của Quốc hội về mối quan hệ nhà nước - công dân có hoàn thiện đến đâu chăng nữa, nhưng nếu các cơ quan hành chính không triển khai thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì những nỗ lực của cơ quan lập pháp cũng không dẫn tới kết qủa mong đợi. Vì thế, trong các yếu tố bảo đảm quyền công dân thì tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa quan trọng.

docx13 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1038 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mấy suy nghĩ về vấn đề kiểm soát cơ quan hành chính nhà nước với mục đích bảo đảm quyền công dân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MẤY SUY NGHĨ VỀ VẤN ĐỀ KIỂM SOÁT CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VỚI MỤC ĐÍCH BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN TRẦN THANH HƯƠNG ThS. Giảng viên Khoa Luật Hành chính - ĐH Luật TP. Hồ Chí Minh I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI KIỂM SOÁT CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN: Quyền của công dân Việt Nam được Hiến pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung) quy định rõ ràng và các văn bản pháp luật khác cụ thể hóa tạo điều kiện cho việc thực hiện. Bảo đảm quyền công dân đòi hỏi có một cơ chế trong đó mọi cơ quan nhà nước, mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội trong mối liên hệ thống nhất cùng tạo điều kiện, phương tiện, biện pháp nhất định để quyền công dân thực hiện được trong thực tế. Trong cơ chế phân công quyền lực nhà nước, nếu như Quốc hội quyết định những vấn đề cơ bản về quyền công dân, bảo đảm thực hiện quyền công dân bằng hoạt động lập hiến và lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng và giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước thì các cơ quan hành chính nhà nước tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống bằng hoạt động điều hành, quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vai trò bảo đảm quyền công dân của cơ quan hành chính nhà nước thể hiện ở chỗ, cho dù hệ thống luật và các quy định của Quốc hội về mối quan hệ nhà nước - công dân có hoàn thiện đến đâu chăng nữa, nhưng nếu các cơ quan hành chính không triển khai thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì những nỗ lực của cơ quan lập pháp cũng không dẫn tới kết qủa mong đợi. Vì thế, trong các yếu tố bảo đảm quyền công dân thì tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước có ý nghĩa quan trọng. Ở nước ta, Chính phủ, các cơ quan trong cơ cấu của Chính phủ và Ủy ban nhân dân (UBND), các cơ quan chuyên môn thuộc UBND các cấp tạo thành hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước có trách nhiệm bảo đảm việc thực hiện quyền công dân. Theo Hiến pháp 1992 (Điều 112, khoản 5) và Điều 8, 18 Luật tổ chức Chính phủ 2001, Chính phủ có nhiệm vụ, quyền hạn: “Thi hành những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình”. Điều 94, 106, 107 Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của UBND các cấp trong việc thực hiện quản lý nhà nước bảo vệ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân. Với vai trò như trên, các cơ quan hành chính nhà nước và công dân là chủ thể của rất nhiều quan hệ pháp luật hành chính đa dạng. Công dân với tư cách chủ thể quan hệ pháp luật hành chính có địa vị pháp lý gắn chặt với hoạt động thực hiện quyền hành pháp. Quyền của công dân phụ thuộc rất nhiều vào việc các cơ quan hành pháp xây dựng những điều kiện về pháp lý, tổ chức, vật chất trên thực tế. Quyền và lợi ích của công dân trực tiếp bị tác động, ảnh hưởng bởi hoạt động thực hiện thẩm quyền của các cơ quan này, trong đó có : - Quyền lập quy: Cơ quan hành chính nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là các văn bản dưới luật như nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư nhằm thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cụ thể hóa các quyền tự do của công dân. Theo nguyên tắc, các văn bản này chỉ là những văn bản cụ thể hóa luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH, song thực tế cho thấy nếu như không có những văn bản pháp quy của các cơ quan hành chính nhà nước cụ thể hóa quyền công dân thì có nhiều quyền công dân không thực hiện được. Hơn nữa, các văn bản này có thể mở rộng hay hạn chế quyền của công dân phù hợp với điều kiện quản lý nhà nước. Ở một quốc gia bất kỳ, nếu như hiệu quả quản lý chưa cao, bộ máy hành chính chưa mạnh thì việc thiết kế bộ máy hành chính nhà nước và thực trạng hoạt động quản lý nhà nước cho thấy nhiều khi các cơ quan hành chính nhà nước thiên về hướng thuận lợi cho mình nhiều hơn là bảo đảm các quyền công dân1. Trong những trường hợp đó, vì mục đích quản lý hành chính nhà nước khách quan, quyền và lợi ích của mỗi cá nhân công dân không được đề cao vì những hạn chế của các cơ quan thực hiện quyền và những thủ tục hành chính - Thực hiện những hành vi hành chính và quyền ban hành các văn bản hành chính cá biệt: Bằng những hành vi và văn bản hành chính, các cơ quan hành chính nhà nước làm xuất hiện, thay đổi hay chấm dứt mối quan hệ pháp lý cụ thể giữa nhà nước và công dân trên cơ sở thực hiện ý chí, quyền lực đơn phương của các cơ quan hành chính nhà nước. Với hoạt động này, các cơ quan hành chính nhà nước giải quyết các vấn đề cụ thể liên quan đến công dân, các yêu cầu về thực hiện quyền của họ; giải quyết khiếu kiện của công dân đối với hệ thống hành chính nhà nước; bảo vệ quyền công dân khi quyền bị xâm hại; thực hiện việc cưỡng chế hành chính đối với vi phạm quyền công dân hay trốn tránh nghĩa vụ; kiểm tra, thanh tra để bảo đảm quyền công dân, xem xét một cách kịp thời và khách quan phản ánh của công dân, bảo đảm thực hiện các quyền cá nhân của họ đã được ghi nhận trong pháp luật: từ việc chứng nhận khai sinh, khai tử, kết hôn, đăng ký cư trú, xin passport, cấp phép, xác nhận liên quan trực tiếp từng người dân, đến việc thực hiện quản lý ngân sách, dự án nhà nước, dịch vụ xã hội, đất đai và các nguồn tài nguyên khác Ở một nền hành chính chưa phát triển thì các hoạt động đó có thể vẫn diễn ra theo cơ chế xin - cho mà bao giờ công dân cũng ở thế yếu trong mối liên hệ với nhà nước. Thực tế, có rất nhiều hoạt động của các cơ quan hành chính có thể gây thiệt hại cho quyền và lợi ích của công dân: áp dụng sai việc xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác, ngăn chặn hành chính; giam giữ, tước quyền tự do thân thể của công dân trái pháp luật; có hành vi bạo lực gây thương tích, tử vong cho công dân Theo Báo cáo số 222 ngày 29/4/2004 của Ủy ban thường vụ Quốc hội có 41% đơn thư khiếu nại về các cơ quan hành chính nhà nước là đúng, 26,3% đơn khiếu nại đúng một phần và hàng vạn khiếu nại ở các cơ quan thanh tra chưa xác định đúng sai. Con số trên cho thấy, những phản ứng từ người dân về hành vi của hành chính công quyền là có cơ sở và việc kiểm soát hoạt động của các cơ quan hành chính càng trở nên bức thiết. Lý luận và thực tiễn của việc thực hiện quyền lực nhà nước nói chung cho thấy cơ quan nhà nước nào càng mang nhiều quyền năng quan trọng thì sự tùy tiện, lạm quyền của các cơ quan nhà nước đó sẽ càng tác động xấu đến người dân và xã hội. Việc xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực có hiệu qủa đối với các cơ quan hành chính nhà nước được xã hội hiện đại quan tâm2. Ở đây, chúng ta giới hạn vấn đề kiểm soát quyền của cơ quan hành chính nhà nước để bảo đảm quyền công dân trong phạm vi nhà nước, được pháp luật quy định. II. TỔNG QUAN VỀ THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC ĐỂ BẢO ĐẢM QUYỀN CÔNG DÂN VÀ MỘT VÀI SUY NGHĨ GÓP PHẦN HOÀN THIỆN: Pháp luật nước ta nhìn chung đã tạo ra một cơ chế khá rõ ràng về kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, kiểm soát đối với hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước nói riêng thông qua các hoạt động giám sát, kiểm sát, thanh tra, kiểm tra, tuy rằng mức độ hoàn thiện và hiệu quả của cơ chế này còn khiêm tốn. Nhìn nhận một cách bao trùm, ngoài cơ chế nhà nước sẽ được đề cập riêng dưới đây, các cơ quan hành chính nhà nước chịu sự kiểm tra, giám sát từ nhiều kênh khác nhau trong xã hội: từ chính nhân dân với cơ sở pháp lý là các văn bản pháp luật về thanh tra nhân dân, về quy chế dân chủ ở cơ sở; từ các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên; từ các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình hoạt động trong khuôn khổ ngày càng rộng rãi của quyền tự do thông tin Dưới góc độ thực hiện quyền công dân, về mặt tổ chức nhà nước, kiểm soát quyền lực đối với các cơ quan hành chính thể hiện như sau: - Thứ nhất: Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước chịu sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước: Chính phủ chịu sự giám sát của Quốc hội; UBND chịu sự giám sát của HĐND cùng cấp; - Thứ hai: Các cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới chịu sự lãnh đạo của cơ quan hành chính nhà nước cấp trên; các cơ quan hành chính chịu sự lãnh đạo của Chính phủ; cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn chịu sự chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra của các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung cùng cấp; cơ quan chuyên môn cấp dưới chịu sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn cấp trên; - Thứ ba: Các cơ quan hành chính nhà nước chịu sự xem xét, đánh giá của các cơ quan thanh tra được tổ chức ngay trong hệ thống hành chính nhà nước. Với cách kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước như trên, bên ngoài và bên trong hệ thống hành chính, nhìn chung quyền công dân có điều kiện bảo đảm. Tuy nhiên, từ quy định của pháp luật và thực tế hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, hàng loạt vấn đề cần bàn tới, trong đó điển hình là: 1. Về sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với cơ quan hành chính nhà nước: Trong cơ chế kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước với mục đích bảo đảm quyền công dân thì giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với các cơ quan hành chính Nhà nước đặc biệt có ý nghĩa vì đây là sự giám sát của cơ quan đại diện nhân dân (và cũng thông qua đó thể hiện sự giám sát của công dân) đối với những cơ quan có hoạt động hàng ngày, hàng giờ trực tiếp, thường xuyên liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Loại hình giám sát này càng có hiệu qủa thì càng có tác dụng củng cố niềm tin của nhân dân vào tính dân chủ của nhà nước, góp phần làm cho nhân dân đến gần hơn với quyền lực nhà nước mà bản chất của nó phải là quyền lực nhân dân. Theo Luật tổ chức Quốc hội 2001, Luật tổ chức HĐND và UBND 2003, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội 2003, có thể nhận thấy sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với các cơ quan hành chính nhà nước phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức với các hoạt động như xét báo cáo công tác; chất vấn những người đứng đầu; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật; điều tra vụ việc nhất định liên quan đến hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội giám sát Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ bảo đảm cho Hiến pháp, luật và nghị quyết của QH, pháp lệnh và nghị quyết của UBTVQH được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất. HĐND giám sát UBND và các cơ quan chuyên môn thuộc UBND trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND và trong việc tuân theo pháp luật của Nhà nước. Các cấp độ giám sát khác nhau, các chủ thể giám sát, đối tượng giám sát khác nhau làm cho mỗi hình thức giám sát của hệ thống giám sát đang được xem xét mang một tính chất và có những vấn đề riêng rất đáng bàn. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài viết này, chỉ xin phân tích một khía cạnh về sự giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể trong xã hội, trong đó có công dân3: Chính phủ- cơ quan cao nhất trong bộ máy hành pháp được trao thẩm quyền rộng trong ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Xuất phát từ nhu cầu quản lý nhà nước, điều này là hợp lý. Đây cũng chính là hoạt động quan trọng của các Chính phủ hiện đại. Theo Điều 56 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Chính phủ được ban hành nghị định, có thể để quy định chi tiết luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH (mục a, khoản 2), song cũng có thể vì chưa có đủ điều kiện xây dựng thành luật, pháp lệnh để đáp ứng nhu cầu quản lý (mục b, khoản 2). Vì thế mà tồn tại những Nghị định do Chính phủ ban hành không cần trên cơ sở của những quy định có trước trong luật. Như vậy, trong trường hợp này, cơ quan hành pháp cũng ra văn bản có ý nghĩa như luật của Quốc hội- cơ quan lập pháp. Hoạt động tương đối tự do trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể dẫn đến sự tùy tiện của hành pháp ảnh hưởng đến quyền công dân. Quyền của công dân có thể bị vi phạm hay hạn chế từ chính các văn bản đó mà ở nước ta cá nhân công dân không có quyền bảo vệ mình hay cộng đồng bằng việc khiếu kiện về văn bản pháp quy4. Luật quy định các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ ban hành chỉ có thể bị đình chỉ hoặc bãi bỏ bởi UBTVQH hay Quốc hội. Vì thế mà kiểm soát Chính phủ trong lĩnh vực này là trọng trách của Quốc hội, UBTVQH. Để tránh việc Quốc hội mất nhiều thời gian, công sức, theo chúng tôi, Quốc hội giám sát việc ban hành văn bản pháp quy của Chính phủ bằng việc thảo luận về tính hợp lý của văn bản đó5; còn tính hợp pháp và đúng thủ tục của văn bản thì có thể giao cho các chủ thể khác6. Tính bất hợp lý của văn bản pháp quy có thể đánh giá bằng sự bất cập hay điều chỉnh không hiệu qủa của nó, từ đó suy ra khuyết điểm, yếu kém, sự thiếu trình độ hay năng lực quản lý - chỉ cơ quan đại diện hợp pháp của nhân dân mới có quyền cho ý kiến về vấn đề này. Tuy Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định trường hợp ban hành nghị định này phải được sự đồng ý của UBTVQH song vẫn nên quy định rõ là những vấn đề liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ công dân phải do luật của Quốc hội điều chỉnh vì đây là điều có ý nghĩa thiết thực đến từng công dân, những người chủ trực tiếp của quyền lực nhà nước. Ở đây, có một nguyên tắc thuộc văn minh pháp luật tư sản trong quan hệ nhà nước- công dân cần được lưu ý là: những quy định liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhân phải được nhân dân hay những đại diện nhân dân đồng ý. Ngoài ra, một Nhà nước pháp quyền phải đủ luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ nhà nước- công dân, đúng như Hiến pháp 1992 chỉ rõ ở Điều 51: “Quyền và nghĩa vụ của công dân do Hiến pháp và luật quy định”. Trong tương lai, khi có điều kiện, nên quy định nghị định của Chính phủ chỉ là những văn bản cụ thể hóa luật theo quy định của Quốc hội trong từng trường hợp. Văn bản của bộ trưởng và tương đương, của Chủ tịch UBND cấp tỉnh liên quan đến quyền lợi công dân chỉ được phép ban hành trong trường hợp được luật của Quốc hội, pháp lệnh của UBTVQH hoặc nghị định của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng chính phủ cho phép. Việc kiểm soát các văn bản này, cũng như những văn bản thấp hơn của cơ quan hành chính nhà nước địa phương cấp thấp hơn- các UBND, có thể dùng chính cơ chế hành chính điều chỉnh, tức là cấp trên kiểm tra văn bản của cấp dưới hoặc hệ thống hành chính sẽ có tài phán của riêng mình. Hệ thống hành chính nhà nước có thể bảo đảm được việc kiểm soát trong nội bộ các cơ quan hành chính nhà nước trong việc tuân theo các văn bản quản lý của hệ thống để bảo đảm quyền công dân7. 2. Về trách nhiệm của công chức hành chính khi vi phạm quyền công dân do không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình trong lúc thi hành công vụ: Để thực hiện quyền của mình, công dân được đòi hỏi từ các cơ quan hành chính nhà nước việc thực hiện các nghĩa vụ của họ. Nhiều khi vì lý do luật không quy định thật sự cụ thể và rõ ràng quyền công dân và trách nhiệm của cơ quan hành chính nên trong thực tế các cơ quan hành chính nhà nước áp dụng pháp luật không thống nhất, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền công dân8. Luật pháp điều chỉnh cụ thể quyền và nghĩa vụ của các cơ quan hành chính nhà nước là điều kiện cho công dân thực hiện quyền, nếu không dễ dẫn đến một trong hai thái cực xâm hại quyền công công dân: cơ quan nhà nước tùy tiện sử dụng quyền, lạm quyền hoặc không thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Quyền của cơ quan hành chính nhà nước có quy định cụ thể thì cán bộ công chức Nhà nước mới có thể hoạt động theo nguyên tắc là họ chỉ làm những gì mà luật pháp quy định, và một khi vi phạm việc thực hiện quyền và nghĩa vụ ắt phải gánh chịu hậu qủa pháp lý. Trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, đây là trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trước công dân trong trường hợp vi phạm quyền của họ. Trách nhiệm này phải gắn với việc bồi thường cho công dân với mục đích khôi phục lại các quyền bị xâm hại của họ. Ở nước ta, nếu như trong lĩnh vực tố tụng hình sự, việc áp dụng luật để khôi phục quyền và lợi ích hợp pháp của người bị oan đã được đã có một bước tiến (trên cơ sở Nghị quyết 388 của UBTVQH 2003, Nghị định 47 ngày 03/5/1997 của Chính phủ cụ thể hóa Hiến pháp- Điều 72, 74; Bộ Luật TTHS -Điều 24; Bộ Luật dân sự -Điều 624) thì việc xác định trách nhiệm bồi thường và áp dụng pháp luật của công chức, viên chức, người có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước khi gây thiệt hại cho công dân vẫn còn nhiều bất cập. Thực tế, chế định trách nhiệm hành chính được hiểu theo nghĩa chủ thể của trách nhiệm hành chính là cá nhân, tổ chức (chịu sự quản lý hành chính của nhà nước) vi phạm luật hành chính. Còn trách nhiệm của nhà nước (có thể là pháp nhân hay viên chức hành chính) vi phạm luật hành chính bằng hành vi hành chính gây tổn thất cho công dân thì được xem xét riêng biệt và hầu như ít được để ý vì nhiều lý do, trong đó có thể là do ta chưa quen với việc coi hai chủ thể nhà nước (cơ quan hành chính nhà nước) và công dân là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Công dân còn chưa ý thức được quyền của mình, còn thụ động, không quen “kiện quan” mà chỉ khiếu nại với tính chất “kêu cứu”, “nài nỉ”, còn cơ quan hành chính nhà nước thì chưa ý thức được trách nhiệm, thiếu thiện chí nên các cơ quan giải quyết tranh chấp hành chính chưa bảo vệ được quyền công dân một cách công bằng trong việc được bồi thường thiệt hại. Theo chúng tôi, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật cho công dân để họ hiểu quyền khiếu nại của mình và nên phân biệt rõ trách nhiệm pháp nhân hành chính và trách nhiệm của viên chức hành chính (bao gồm cả trách nhiệm liên đới) gắn với việc bồi thường thiệt hại cho công dân theo đúng nguyên tắc Hiến pháp: “Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự” và quy định của Điều 623 BLDS về bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước gây ra để bảo đảm quyền công dân và nâng cao tinh thần phục vụ của cán bộ hành chính nhà nước. Xa hơn nữa, để cho dễ dàng áp dụng pháp luật một cách thống nhất về bồi thường thiệt hại trong cả hai lĩnh vực: do cơ quan hành chính gây ra và do các cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, nên chăng pháp điển hóa pháp luật trong lĩnh vực này, tạo ra một văn bản chung, có thể là “Luật Nhà nước bồi thường thiệt hại”. Tóm lại, bộ máy hành chính nhà nước-nhân tố bảo đảm cho việc thực hiện có hiệu qủa những quyền tự do của công dân, phải chấp hành đúng pháp luật và chịu trách nhiệm về những hành vi không đúng luật định, lạm dụng quyền lực. Khi quy định về địa vị pháp lý hành chính của công dân, những quyền và nghĩa vụ pháp lý tương ứng của các cơ quan hành chính nhà nước gắn với trách nhiệm của họ trong việc khôi phục lại quyền, lợi ích bị xâm phạm của công dân phải đồng thời được quy định cụ thể. 3. Về cách thức công dân bảo vệ quyền của mình khi bị xâm hại bởi cơ quan hành chính nhà nước: Thực chất bảo đảm quyền công dân là nghĩa vụ của mọi cơ quan nhà nước và công chức nhà nước. Tuy nhiên, như đã phân tích, vì các cơ quan hành chính nhà nước là chủ thể có hoạt động liên quan trực tiếp đến thực hiện mọi quyền công dân nên cần phải tạo ra các biện pháp pháp lý riêng biệt để công dân bảo vệ quyền của mình khi quyền của họ bị xâm phạm bằng việc khiếu kiện về các hành vi hành chính hay quyết định hành chính của các cơ quan hành chính nhà nước. Trong trường hợp các cơ quan hành chính nhà nước không thực hiện nghĩa vụ của mình, vi phạm các quyền tự do của công dân, công dân phải có khả năng khiếu kiện bằng các thủ tục hành chính hay tư pháp. Với những mặt tích cực và hạn chế riêng của mỗi thủ tục, trong đó gần như mặt tích cực của thủ tục này là hạn chế của thủ tục kia và ngược lại, việc pháp luật đảm bảo cho người dân lựa chọn quy trình cho việc giải quyết tranh chấp hành chính hoàn toàn theo sự lựa chọn của họ là xu hướng tốt nhìn từ phương diện bảo vệ quyền công dân. Về nguyên tắc, công dân thuận lợi nếu như họ có nhiều biện pháp để bảo vệ quyền khi quyền bị xâm hại. Thậm chí, nếu như một nhà nước coi trọng bảo đảm quyền công dân thì ngay trong
Tài liệu liên quan