Sáp nhập 2 thương hiệu có nghĩa là tạo thêm giá trị cho 1 thương 
hiệu và loại bỏ giá trị của 1 thương hiệu khác. Sau khi sáp nhập thì 
thông thường chỉ còn 1 thương hiệu được tồn tại. Vì mục đích của 
sáp nhập là làm tăng tổng giá trị của thương hiệu đó, vì vậy mọi hoạt 
động bên cạnh việc sáp nhập phải được đánh giá về tài chính, về hoạt 
động, về pháp lý , pháp nhân, công nghệ và rất nhiều yếu tố khác.
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 7 trang
7 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1929 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Merger & Acquisition - Sáp nhập và Mua lại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Merger & Acquisition - Sáp nhập và Mua lại 
Sáp nhập 2 thương hiệu có nghĩa là tạo thêm giá trị cho 1 thương 
hiệu và loại bỏ giá trị của 1 thương hiệu khác. Sau khi sáp nhập thì 
thông thường chỉ còn 1 thương hiệu được tồn tại. Vì mục đích của 
sáp nhập là làm tăng tổng giá trị của thương hiệu đó, vì vậy mọi hoạt 
động bên cạnh việc sáp nhập phải được đánh giá về tài chính, về hoạt 
động, về pháp lý , pháp nhân, công nghệ và rất nhiều yếu tố khác. 
Khi hai thương hiệu lớn cùng về chung sống dưới một mái nhà theo quy 
tắc “M&A” (Merger & Acquisition - sáp nhập và mua lại), cả hai đôi lúc lại 
vô tình quên mất đi những khách hàng trung thành - “mối tình đầu” của họ. 
Nghe thì có vẻ khó tin nhưng lắm khi đó là sự thật. Công ty sáp nhập có 
thể mạnh hơn, lớn hơn nhưng điều đó không có nghĩa gì nếu sự kỳ vọng 
của khách hàng không được đáp lại. 
Năm 2005 được xem là năm của những cuộc sáp nhập đình đám, trước 
hết là việc SBC tiếp quản AT&T với giá 16 tỉ USD, tiếp theo là số tiền 57 tỉ 
USD do P&G chi ra để có được Gillette. Theo CNN đây là năm thứ 4 diễn 
ra các vụ sáp nhập với tổng số tiền lên đến hơn 1 trăm tỉ USD. 
Khi các tài sản vô hình góp phần không nhỏ trong giá trị của các tập đoàn 
ở thế kỷ 21, việc định giá của thương hiệu, đặc biệt là khi đánh giá tài sản 
thương hiệu như “tài sản vô hình” trên giấy tờ là một trong những yếu tố 
rất quan trọng trong “hợp đồng hôn nhân” M&A. Nhưng cũng thật không 
may khi phần lớn tất cả những gì thuộc về thương hiệu đều là vô hình do 
đó không có một cách nào rõ ràng để định giá một thương hiệu. 
Điều quan trọng trước hết đối với các bên tham gia, theo ý kiến của 
Suzanne Hogan, công ty tư vấn thương hiệu Lippicott Mercer, là nắm được 
chiến lựơc thương hiệu của tập đoàn trước khi bắt tay vào ký kết bất kỳ 
hợp đồng M&A, vì nếu không nắm được đích xác giá trị thương hiệu, họ có 
thể “hét giá” thương hiệu lên đến tận mây xanh trong khi thực tế thì không 
phải như vậy. 
Những sự kiện quan trọng cùng với tài sản thương hiệu đáng nể của AT&T 
có thể được xem như trường hợp điển hình của một công việc kinh doanh 
không còn thành đạt nhưng lại giữ được cho mình một thương hiệu cực kỳ 
đáng giá. Khoan bàn đến việc thương hiệu AT&T có được định quá cao 
quá mức hay không, hiện đã có thông báo rằng trong tương lai cái tên 
AT&T chắc hẳn sẽ còn xuất hiện dài dài sau khi sáp nhập vào SBC. 
Trong xây dựng thương hiệu, điều quan trọng khác cần ghi nhớ chính là 
nắm được điểm mạnh cũng như điểm yếu của thương hiệu được sáp 
nhập, để từ đó có thể đánh giá được mức độ tương thích của thương hiệu 
này với chiến lược của thương hiệu đứng ra mua lại. Chỉ khi đánh giá đúng 
“thực lực” mới có thể vẽ ra chính xách “kiến trúc thương hiệu” (một từ giới 
chuyên môn dùng để nói về thương hiệu và cách các thương hiệu ăn khớp 
với nhau ra sao) và kế hoạch truyền thông. 
Tuy nhiên, mặc dù có rất rất nhiều vụ sáp nhập và mua lại thương hiệu 
diễn ra (con số này đã tăng gấp rưỡi trong năm 2005), thế nhưng con số 
những công ty coi nhẹ việc mua lại vẫn còn cao đến đáng kinh ngạc. Chỉ 
khi có nguy cơ gặp khủng hoảng đang đe doạ đến các thương hiệu trong 
danh mục hoặc đang lăm le gây khó khăn cho việc truyền thông thương 
hiệu cốt lõi của họ. Thông thường các chuyên viên tư vấn thương hiệu chỉ 
được viện đến chỉ để dàn xếp mớ bòng bong các thương hiệu sau các vụ 
mua lại lớn nhỏ. 
Ngoài nhiệm vụ làm đầy túi của các nhân vật lãnh đạo chủ chốt và những 
ông chủ ngân hàng, lợi ích chính của việc mua lại và sáp nhập thương 
hiệu là làm tăng thêm giá trị cho những cổ đông. Và trong khi lợi ích thật 
sự của các vụ ngoặc tay này đối với khách hàng sau cùng còn là vấn đề 
đáng bàn cãi thì nhiều người trong ngành vẫn tin rằng khách hàng/người 
tiêu dùng không phải là đối tượng quan tâm chính trong các hợp đồng 
M&A. 
Theo nhận xét của Ken Fenyo, trung tâm tư vấn quản lý và xây dựng 
thương hiệu Prophet: “Những nhà lãnh đạo thường quá quan tâm đến hợp 
đồng mua lại cùng với tất cả chi phí mà họ phải trả…đến nỗi người lãnh 
nhận bất kỳ hậu quả nào sau đó lại chính là khách hàng. Chỉ cần nghiên 
cứu những hợp đồng sáp nhập thành công và thất bại, ta dễ dàng thấy 
rằng điểm khác biệt giữa cả hai chính là một bên biết thật sự quan tâm đến 
lợi ích khách hàng, còn một bên chỉ biết chăm chăm lo cho lợi ích riêng tư 
của tập đoàn và của bản thân họ.” 
Thông thường khi thông báo của những sự kiện M&A thường mang vẻ 
hứa hẹn một cuộc sống chung “hạnh phúc đến đầu bạc răng long” của các 
thương hiệu. Mục đích cốt lõi nhất của M&A là để thể hiện sự đồng bộ giữa 
hai doanh nghiệp và cho mọi người thấy rằng, “một cây làm chẳng nên 
non, hai (hoặc nhiều) cây chụm lại nên hòn núi cao”, hay nói theo cách của 
Fenyo là “phải chứng tỏ rằng 1+1 >2”. Cuộc hôn nhân giữa Cingular và 
AT&T Wireless là nhằm mục đích mưu cầu hạnh phúc như trên. 
M&A cũng giúp loại bỏ những thương hiệu kém cỏi và khiến thương hiệu 
cốt lõi trở nên mạnh hơn, hay theo cách nói của David Harding và Charles 
Tillen của Bain & Co., “thu nhỏ để phát triển”. Cho dù là bán một phần nhỏ 
trong doanh nghiệp cho người ngoài hay gạt bỏ đi những thương hiệu 
không còn phù hợp với chiến lược phát triển chung nhưng tất cả đều góp 
phần trong việc củng cố sức mạnh của thương hiệu cốt lõi. 
Một thăm dò trên 250 nhà lãnh đạo có trực tiếp tham gia vào những hợp 
đồng M&A do công ty tư vấn Bain & Co. thực hiện cho thấy lý do khiến cho 
có những vụ lục đục xảy ra sau “hôn nhân” là do “bỏ qua những thách thức 
khi sáp nhập” hoặc “đánh giá cao quá mức khả năng hoà hợp”. 
Trong trường hợp M&A của Kmart và Sears diễn ra năm 2004, nhiều 
người đã xem rằng đây không khác gì một hợp đồng bất động sản và cá 
cược với nhau xem một trong hai cái tên Kmart và Sears, tên nào sẽ sớm 
bỏ cuộc chơi. Giá trị của hợp đồng được ước tính lên đến 12.3 tỉ USD và 
đã đẩy giá cổ phiếu của Sears lên 22% và Kmart lên 16% không lâu sau 
khi việc sáp nhập được công bố. Và kể từ ngày Kmart tự đứng dậy sau khi 
phá sản từ tháng 5/2003, giá cổ phiếu của Kmart đã tăng đến 700% tính 
đến mùa xuân 2005. 
Những con số vừa nêu nghe có vẻ rất ấn tượng, thế nhưng tên tuổi Kmart 
vẫn còn ít nhiều bị hoen ố trên thị trường. Với kế hoạch bán các dòng sản 
phẩm của Kmart cùng với dòng sản phẩm của Sears, phần đông mọi 
người vẫn tiên đoán rằng sớm muộn gì thì cái tên Kmart cũng sẽ biến mất 
khi hệ thống nhận diện thương hiệu của cả hai được nhập chung lại. 
Một số trường hợp rút lui cũng đã được tiên đoán trước. Không muốn sản 
phẩm của mình bị xếp vào hàng “bèo” ở Kmart, Nike đã nhanh chóng kết 
thúc hợp đồng với Kmart và chỉ tiếp tục cho các mặt hàng của mình tại 
Sears cho đến mùa thu 2005. 
Sắp tới đây là những dự định khai trương Sears Essentials với sự kết hợp 
nhiều thương hiệu khác nhau từ Sears và Kmart cùng với những sản phẩm 
cao cấp hơn. Theo tờ Chicago Sun Times, Sears đang nhắm đến việc đặt 
cơ sở tại những khu đô thị giàu có hơn để chuyển các cửa hàng thuộc hệ 
thống Kmart sang Sears Essentials và nhắm đến những khách hàng có thu 
nhập hàng năm vào khoảng 80,000USD trở lên (khách hàng của Kmart có 
thu nhập vào khoảng 40,000USD/năm). 
Tóm lại, khi cùng nhau ký vào “hợp đồng hôn nhân”, đôi bên phải nắm 
được tài sản thương hiệu và biết cách dung hoà cũng như loại bỏ những 
khía cạnh hoặc yếu tố bất lợi, có như vậy cuộc các thương hiiệu mới có 
thể sống chung hoà thuận dưới cùng một mái nhà.