Tóm tắt. Minh triết về tôn giáo là một trong những giá trị đặc sắc của minh triết
Hồ Chí Minh. Bài viết đã làm rõ nội hàm khái niệm “minh triết”, “minh triết Hồ
Chí Minh”, từ đó đi tới phân tích những nội dung căn bản của minh triết Hồ Chí
Minh về tôn giáo trên các phương diện: mềm dẻo, nhân văn, hòa hợp, đoàn kết và
tri hành hợp nhất.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 90 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Interdisciplinary Sci., 2014, Vol. 59, No. 1, pp. 138-145
MINH TRIẾT HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
Nguyễn Thị Toan
Khoa Triết học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Minh triết về tôn giáo là một trong những giá trị đặc sắc của minh triết
Hồ Chí Minh. Bài viết đã làm rõ nội hàm khái niệm “minh triết”, “minh triết Hồ
Chí Minh”, từ đó đi tới phân tích những nội dung căn bản của minh triết Hồ Chí
Minh về tôn giáo trên các phương diện: mềm dẻo, nhân văn, hòa hợp, đoàn kết và
tri hành hợp nhất.
Từ khóa: Minh triết, minh triết Hồ Chí Minh, tôn giáo, nhân văn.
1. Mở đầu
Minh triết Hồ Chí Minh là sự kết tinh và tỏa sáng của minh triết Việt. Với trí tuệ
uyên bác, nhân cách cao thượng, nhà minh triết Hồ Chí Minh đã có ảnh hưởng to lớn và in
dấu ấn sâu đậm vào lịch sử thế giới hiện đại. Một trong những giá trị đặc sắc trong minh
triết Hồ Chí Minh là minh triết về tôn giáo. Có thể khẳng định, minh triết Hồ Chí Minh
về tôn giáo đã đạt tới độ hoàn hảo, có giá trị định hướng cho việc giải quyết vấn đề tôn
giáo ở Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Minh triết và minh triết Hồ Chí Minh
2.1.1. Minh triết là gì?
Thuật ngữ minh triết ( ) đã xuất hiện ở Trung Quốc từ hơn 2000 năm trước.
Chữ minh được ghép bởi chữ nhật (mặt trời), nguyệt (mặt trăng), nghĩa là sáng (như ánh
sáng của mặt trời, mặt trăng). Chữ triết được ghép bởi chữ cân (cái búa) và chữ khẩu (chỉ
tư duy, ngôn ngữ), nghĩa là tư duy đã được phân tích để khám phá. Minh triết là trí tuệ
sáng suốt.
Ở Hy Lạp cổ đại, minh triết là sophia. Triết học là philosophia, nghĩa là yêu mến
minh triết, yêu mến sự thông thái. Nhà triết học cũng chỉ dám dừng ở mức dưới minh triết
để ngưỡng mộ minh triết – cái tối thượng. Trái lại, ở thời kì cận – hiện đại, một số triết gia
Ngày nhận bài: 15/12/2013 Ngày nhận đăng: 20/1/2014
Liên hệ: Nguyễn Thị Toan, e-mail: toandhsp1@gmail.com
138
Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo
lại hạ thấp minh triết xuống dưới tầm triết học. Triết gia Anh Wittgenstein coi minh triết
như bà con nghèo của triết học. Minh triết là một cái gì đó nguội lạnh và lẩn thẩn, như
tro xám phủ lên than hồng cuộc sống. Minh triết già nua, ngưng đọng và cũ kĩ, ngược với
triết học luôn vận động, phát triển.
Minh triết là gì? Định nghĩa về minh triết là một việc khá khó khăn, bởi vì minh
triết hiển hiện và thẩm thấu trong cuộc sống đời thường, có thể cảm nhận bằng trực giác
mà không cần qua khâu trung gian của khái niệm. Có thể nhận dạng minh triết qua những
khía cạnh sau:
1. Đối tượng của minh triết là con người và đời người, không phải là thế giới quan
mà là nhân sinh quan.
2. Nhiệm vụ của minh triết cảm hóa lòng người. Minh triết hướng nội, xuất phát từ
tâm sáng, trí sáng để thu phục nhân tâm.
3. Nội dung của minh triết là đạo lí sống hướng tới sự cân bằng, hài hòa giữa lí và
tình, danh và thực, vật chất và tinh thần, trí óc và tâm hồn, cá nhân và tập thể.
4. Phương pháp của minh triết là thể nghiệm trực giác trong năng lực thấu hiểu và
thấu cảm. Minh triết gắn với nghiệm sinh, là kho báu của những kinh nghiệm đối nhân xử
thế linh hoạt, mềm dẻo.
5. Hình thức của minh triết là những diễn ngôn ngắn gọn, hàm súc. Minh triết không
thiên về lí luận, phân tích nên không thành hệ thống, không có cấu trúc, không có tính
logic – lịch sử.
Tóm lại, minh triết là trí tuệ sáng suốt được nghiệm sinh trong đời sống, thể hiện
qua những diễn ngôn hàm súc.
2.1.2. Minh triết Hồ Chí Minh
Minh triết Hồ Chí Minh là sự thống nhất, hòa quyện chặt chẽ giữa cuộc đời và sự
nghiệp, tư tưởng và nhân cách Hồ Chí Minh.
1. Đối tượng của minh triết Hồ Chí Minh là con người, là dân tộc, nhân dân. Nhà
minh triết dõi theo ngàn năm để tìm về một điểm (Trang Tử). Cái điểm đó trong minh triết
Hồ Chí Minh tình yêu thương vô hạn đối với con người: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp
cũng như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người
là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đang bị đau khổ, áp bức” [3;231-232].
Vì lẽ đó, cả cuộc đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng con người khỏi áp
bức bất công, nghèo nàn lạc hậu để mang lại độc lập – tự do – hạnh phúc cho nhân dân.
2. Minh triết Hồ Chí Minh là minh triết của trí tuệ mẫn tiệp, của tâm sáng lòng
trong, yêu nước thương dân da diết.
3. Minh triết Hồ Chí Minh là minh triết của sự hài hòa, đồng thuận và khoan dung,
tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, biến thành phương châm xử thế thấu tình
đạt lí, linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo trong tinh thần “dĩ bất biến ứng vạn biến”.
4. Minh triết Hồ Chí Minh là minh triết của tri hành hợp nhất, thống nhất tới độ
nhuần nhuyễn, không chia tách giữa lời nói và hành động, cuộc đời và tư tưởng, trí tuệ và
139
Nguyễn Thị Toan
nhân cách.
5. Minh triết Hồ Chí Minh là minh triết kiệm ngôn. Ngôn từ giản dị, văn phong
trong sáng, ngắn gọn, ý tứ sâu xa.
Minh triết Hồ Chí Minh thể hiện phong phú, toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Một
trong những giá trị đặc sắc của minh triết Hồ Chí Minh là minh triết về tôn giáo.
2.2. Những nội dung cơ bản của minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo
Hiểu sâu sắc bản chất, vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội, Hồ Chí Minh đã
thể hiện rõ thái độ tôn trọng tôn giáo và có cách hành xử đối với tôn giáo đậm chất nhân
văn, đạt tới tầm minh triết với hai nội dung căn bản: 1. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo của nhân dân; 2. Đoàn kết lương giáo. Đó là sự vận dụng sáng tạo những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về tôn giáo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
2.2.1. Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo là minh triết sáng tạo, mềm dẻo, linh
hoạt
Vào nửa đầu thế kỉ XX, tôn giáo thế giới có nhiều biến chuyển phức tạp. Ở Việt
Nam, sự thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 cùng với sự ra đời của nhà
nước Cộng hòa nhân dân non trẻ đã thay đổi vận mệnh của đất nước, nhân dân. Là người
Cộng sản vô thần, là lãnh tụ chính trị cao nhất của đất nước, xuất phát từ hoàn cảnh đặc
thù của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vượt lên những định kiến thông thường để có thái độ
mềm dẻo, khéo léo, hợp tình hợp lí đối với tôn giáo. Theo Hồ Chí Minh, Việt Nam không
có tín ngưỡng tôn giáo theo cách nghĩ của châu Âu. Nếu coi Nho giáo là một tôn giáo thì
hầu hết người Việt Nam đều chịu ảnh hưởng của tôn giáo này. Đa phần người Việt theo
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Phật giáo đã hòa làm một vào dòng lịch sử dân tộc, thấm sâu
trong văn hóa Việt. Đối với Ki tô giáo, ngoại trừ một số phần tử phản động, còn lại đa số
tín đồ thuần phác, một số tích cực tham gia cách mạng và có những đóng góp quan trọng
cho đất nước, nhân dân. Trong bối cảnh đất nước đầy rẫy khó khăn, thù trong giặc ngoài
mọc lên như nấm sau mưa, sẽ dại dột nếu tuyên chiến với tôn giáo, bởi vì tuyên chiến với
tôn giáo là tuyên chiến với quần chúng nhân dân. Cách mạng sẽ không thể thành công
được nếu thiếu đi sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Từ vị thế của một lãnh tụ chính trị
đứng đầu đất nước, với tầm nhìn chiến lược sáng suốt, nhằm quy tụ lực lượng, tăng sức
mạnh cho cách mạng Hồ Chí Minh đã không đẩy tôn giáo về phía đối nghịch với chế độ
mới. Ngay từ khi giành được chính quyền, trong phiên họp đầu tiên của chính phủ lâm
thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị chính phủ tuyên bố tự do tín ngưỡng và lương giáo đoàn
kết. Hiến pháp 1946 đã ghi rõ: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng”. Có tín
đồ băn khoăn: Tiến lên chủ nghĩa xã hội thì tôn giáo có bị hạn chế không? Hồ Chí Minh
khẳng định: Người Cộng sản tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không những
không tiêu diệt tôn giáo mà còn bảo hộ tôn giáo. Có tín đồ băn khoăn: Người Công giáo
có được vào Đảng Lao động không? Hồ Chí Minh trả lời: Người theo tôn giáo nào cũng
vào được, miễn là trung thành, hăng hái làm nhiệm vụ, giữ vững kỉ luật của Đảng. Nước
ta kinh tế lạc hậu, kỹ thuật kém, tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật, nhưng trong
140
Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo
điều kiện hiện tại người theo đạo vẫn vào đảng được.
Dĩ bất biến ứng vạn biến, thái độ mềm dẻo đối với tôn giáo của Hồ Chí Minh vẫn
dựa trên những nguyên tắc căn bản. Cái bất biến trong minh triết Hồ Chí Minh là độc lập
cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là khát vọng, là lí tưởng
cao đẹp bất biến trong suốt cuộc đời Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Công giáo hay
không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo đều phải nỗ lực đấu tranh cho nền độc
lập của nước nhà. Nhiệm vụ của toàn thể chúng ta là phải giữ vững nền độc lập. Trong
Công giáo có câu “Tam vị nhất thể”, nhà Phật có câu “Vạn chúng nhất linh” nên chúng ta
phải hy sinh cho nhân loại và chúng sinh” [11;47]. Bởi vậy, Hồ Chí Minh vẫn kiên quyết
đấu tranh, vạch trần âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng tôn giáo để chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, chống phá cách mạng. Trước cách mạng tháng Tám, Người đã tố cáo
những giáo sĩ dẫn đường cho quân đội viễn chinh và tố giác những người yêu nước, những
thủ đoạn của nhà truyền giáo cưỡng đoạt ruộng đất của nông dân, phê phán quyết liệt tội
ác của giáo hội Thiên Chúa giáo đối với dân tộc Việt Nam. Sau cách mạng tháng Tám, Hồ
Chí Minh đã chỉ đạo kiên quyết và kịp thời những vụ việc phức tạp liên quan tới tôn giáo
như: lôi kéo tín đồ bỏ lao động sản xuất để hành lễ, thủ tiêu cán bộ Việt Minh (tại giáo xứ
Bùi Chu, Phát Diệm. . . ). Người gọi những kẻ nhân danh tôn giáo làm tay sai cho kẻ thù
không chỉ là việt gian mà còn là giáo gian. Người yêu cầu: “Trong Hiến pháp nước ta đã
định rõ quyền tự do tín ngưỡng, kẻ nào vi phạm Hiến pháp và khiêu khích bà con Công
giáo sẽ bị xử lí”; “. . . kiên quyết trừng trị những kẻ mượn tiếng đạo làm nhục Chúa, làm
hại dân” [8;197], “Bảo vệ tự do tín ngưỡng, nhưng kiên quyết trừng trị những kẻ đội lốt
tôn giáo để phản Chúa, phản nước” [10;479].
2.2.2. Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo là minh triết nhân văn, minh triết của
tình yêu thương, thái độ tôn trọng con người
Đối tượng của minh triết Hồ Chí Minh là con người, là dân tộc, nhân dân. Nhà minh
triết dõi theo ngàn năm để tìm về một điểm (Trang Tử). Cái điểm đó trong minh triết Hồ
Chí Minh tình yêu thương vô hạn đối với con người: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp cũng
như mọi vấn đề khác trong lúc này là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là
phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đang bị đau khổ, áp bức” [3;231-232].
Vì lẽ đó, cả cuộc đời Hồ Chí Minh phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng con người khỏi áp
bức bất công, nghèo nàn lạc hậu để mang lại độc lập – tự do – hạnh phúc cho nhân dân.
Từ lí tưởng đó, Hồ Chí Minh không nghiên cứu tôn giáo vì tôn giáo mà vì sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng con người. Tôn giáo là tiếng lòng của quần chúng nhân dân, là
“tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức”, là “trái tim của thế giới không có trái tim” (C.
Mác). Khi đất nước còn khó khăn chồng chất khó khăn, chưa thể có một thiên đàng thực
sự nơi mặt đất thì không ai có thể và có quyền làm tan vỡ giấc mơ thiên đàng của nhân
dân. Tôn giáo còn giữ vai trò là “phần bù” của thế giới thực tại, bù đắp cho những thiếu
hụt của con người nơi trần thế, là liều thuốc giảm đau giúp con người vợi bớt nỗi buồn
khổ trong cuộc đời. Từ tình thương yêu vô hạn đối với nhân dân, Hồ Chí Minh lắng nghe,
thấu hiểu, cảm thông và trân trọng những nhu cầu tâm linh ấy của quần chúng nhân dân.
Bởi vậy, Hồ Chí Minh nhìn tôn giáo không chỉ bằng trí tuệ mẫn tiệp mà còn bằng con mắt
141
Nguyễn Thị Toan
của tấm lòng nhân ái, nhân văn.
2.2.3. Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo là minh triết của tinh thần khoan dung,
hòa hợp, đoàn kết
Theo Hồ Chí Minh mỗi người có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa, có quyền theo
hoặc không theo một tôn giáo nào đó đồng thời phải có nghĩa vụ tôn trọng niềm tin tôn
giáo của người khác. Người đi tìm một một tiếng nói chung giữa các tôn giáo, giữa tôn
giáo với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Điểm gặp gỡ giữa các vĩ nhân trong lịch sử nhân loại là niềm yêu thương nhân thế,
là khát vọng giải thoát con người khỏi những nỗi khổ của cuộc đời để đạt tới hạnh phúc,
tự do. Theo Hồ Chí Minh, Khổng Tử sinh ra là để giúp con người sống nhân nghĩa trong
một thế giới đại đồng; Phật sinh ra để lợi lạc quần sinh, vô ngã vị tha; Đức Giê-su hi sinh
là vì muốn loài người được tự do, hạnh phúc. Điểm gặp gỡ trong tư tưởng và hành động
của các thánh nhân là đều mưu cầu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội.
Người tin rằng nếu những người đó sống cùng thời thì nhất định họ sẽ chung sống với
nhau hoàn mĩ như những người bạn thân thiết. Hồ Chí Minh còn thấy được sự tương đồng
giữa lí tưởng tôn giáo và lí tưởng cộng sản: “Nếu đức Giê-su sinh ra vào thời đại chúng ta
và phải đặt mình vào những nỗi khổ đau của người đương thời, chắc ngài sẽ là một người
xã hội chủ nghĩa đi tìm đường cứu khổ loài người” [13;79]. Thậm chí, Người còn cho rằng
nếu Khổng Tử sống ở thời đại ngày nay thì ông cũng có thể trở thành người kế tục trung
thành của Lênin. Đây là một sự so sánh đặc sắc làm nên phong cách khoáng đạt của Hồ
Chí Minh. Thay vì chế giễu, công kích tôn giáo như thái độ của một số người cộng sản,
trí tuệ lớn, trái tim nhân ái, tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, bao dung và tinh thần cầu đồng tôn
dị đã khiến cho Hồ Chí Minh luôn nhìn thấy điểm tương đồng trong những khác biệt, đối
lập, cái tốt đẹp trong những điều tưởng chừng chưa tốt đẹp, dùng những mệnh đề khẳng
định thay vì những mệnh đề phủ định. Những điểm tương đồng đó là cơ sở cho tinh thần
đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc trong minh triết Hồ Chí Minh. Sau khi ký kết hiệp
định Giơnevơ, Hồ Chí Minh kêu gọi: “Tôi thiết tha kêu gọi tất cả những người thật thà
yêu nước không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đã
đứng về phe nào, chúng ta thật thà cộng tác, vì dân, vì nước mà phấn đấu thực hiện hòa
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ trong nước Việt Nam yêu quý của chúng ta” [9;323].
Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ bước vào giai đoạn cam go, quyết liệt, Hồ Chí Minh kêu
gọi: “Đồng bào các dân tộc, các tôn giáo hãy đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà, cùng
nhau ra sức chống Mỹ cứu nước” [10;471]. Nhờ coi trọng tinh thần đoàn kết lương giáo,
đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh đã xóa dần những định kiến, mặc cảm phân biệt tôn giáo,
tập hợp được lực lượng cách mạng hùng hậu – yếu tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đây là điểm sáng tạo nhất, độc đáo nhất trong minh triết Hồ Chí Minh về tôn
giáo.
2.2.4. Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo là minh triết của tri hành hợp nhất
Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo là sự nhất quán giữa tư tưởng, lời nói và hành
động. Không dừng ở tư tưởng và lời nói, Hồ Chí Minh đã thể hiện sự tôn trọng tôn giáo
142
Minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo
bằng những hành động cụ thể, thiết thực. Người đã trực tiếp soạn thảo, chỉ đạo việc soạn
thảo và ký những sắc lệnh về tôn giáo, khẳng định tính nhất quán trong đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Với cương vị là người đứng đầu chính phủ, Hồ Chí Minh đã đảm bảo quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo trên phương diện pháp lí và phương diện thực tiễn. Người cũng đã có
những chỉ dẫn cụ thể, rõ ràng để giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tôn giáo với
dân tộc, tôn giáo với chủ nghĩa xã hội. Người nhắc nhở cán bộ làm công tác tôn giáo phải
tuyên truyền, giải thích cho các tín đồ tôn giáo hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ
để họ thực hiện, đồng thời phải kiên quyết đấu tranh chống những âm mưu, thủ đoạn lợi
dụng tôn giáo để chống phá cách mạng. Cán bộ muốn làm tốt công tác tôn giáo phải hiểu
sâu về tôn giáo đồng thời tìm hiểu tình hình thực tế, phải ba cùng với đồng bào theo đạo,
phải kiên nhẫn, khéo léo thì mới thuyết phục, cảm hóa được họ.
Đặc biệt, bản thân Hồ Chí Minh cũng thể hiện sự thành kính đối với các tôn giáo.
Năm 1927, khi còn ở Thái Lan, Người đã từng chỉ đạo việc xây một ngôi chùa và thường
xuyên đi lễ chùa. Khi đã là Chủ tịch nước, Người vẫn thân hành đến các đền chùa, đình
miếu thắp hương để cầu mong quốc thái dân an. Trực giác tâm linh và trí tuệ thiên tài
giúp Người tiên tri được nhiều sự kiện quan trọng sẽ xảy ra đối với đất nước (ngày Việt
Nam độc lập, chiến thắng Điện Biên Phủ và trận Điện Biên Phủ trên không, thời điểm giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước. . . ) Dự cảm về một tương lai không tốt đẹp đối với
tôn giáo, Người đã sớm ký Sắc lệnh số 65 (23ơ/11/1945), yêu cầu bảo tồn tất các di tích
văn hóa trên đất nước, cấm phá hủy các đình, chùa, đền, miếu. . . Tiếc rằng, tinh thần ấy
không được quán triệt đầy đủ và thực hiện nghiêm túc trong thời kì bao cấp, dẫn tới những
hệ lụy đáng tiếc đối với tôn giáo.
Vượt lên tất cả, minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo là minh triết của một cuộc đời
con người Việt Nam đẹp nhất, tổng hòa tinh hoa văn hóa phương Đông và văn hóa nhân
loại, trong đó có tinh hoa tôn giáo. Trong con người Hồ Chí Minh có tinh thần vô ngã vị
tha của Phật, có lòng bác ái bao dung, đức hy sinh cao cả của Chúa Giê-su, đức nhân của
Khổng Tử. . . Chính điều này đã góp phần nâng tư tưởng Hồ Chí Minh lên tầm minh triết
Hồ Chí Minh. Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên cây thập giá để cứu chuộc cho tội lỗi của
loài người. Khổng Tử đi khắp nơi, dùng đức nhân để giáo hóa con người. Từ bỏ mọi vinh
hoa phú quý, mong manh áo vải chân trần xuyên qua trần thế gian chuân bụi bặm, Phật
Thích Ca tìm con đường giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ của sinh lão bệnh tử, của tham
sân si để đạt tới Niết Bàn vô ngã – nơi con người thoát khỏi cái tôi và lòng khao khát trở
thành. . . Hồ Chí Minh với hai bàn tay trắng, rời quê hương đi khắp năm châu bốn bể tìm
con đường giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội vì dân. Suốt
cuộc đời, Hồ Chí Minh phấn đấu hy sinh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc và
nhân loại: “Độc lập cho Tổ quốc tôi, tự do cho dân tộc tôi và hạnh phúc cho đồng bào tôi.
Đó là tất cả những gì tôi muốn, đó là tất cả những gì tôi hiểu” [6;42]. Người từ giã cõi đời
trong giờ khắc tâm linh (Ngày Quốc khánh 2/9), vẫn đau đáu một nỗi lo cho dân cho nước.
Không một chút của cải riêng, không một tấm huân huy chương trên ngực áo, Người đã
đến với đời, sống ở đời và giã từ cuộc đời trong tinh thần vô ngã. Cuộc đời Người là cuộc
đời một thánh nhân.
143
Nguyễn Thị Toan
2.3. Ý nghĩa của minh triết Hồ Chí Minh về tôn giáo với việc giải quyết
vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
Trong thời kì hiện đại, sau một thời gian dài khủng hoảng, tôn giáo đang hồi sinh
trở lại với những diễn biến phức tạp. Đó là một sự phản kháng “định mệnh” của cơn lốc
toàn cầu hóa, là sự khắc khoải nội tâm của con người muốn tìm lại những giá trị nhân bản
đang bị tha hóa trong thế giới hiện đại. Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong thời kì hiện đại, sự hồi sinh tôn giáo ở Việt Nam thể hiện ở việc số lượng tín đồ tôn
giáo ngày càng gia tăng, nhà thờ, chùa chiền và các cơ sở thờ tự được sửa chữa, xây mới
ngày càng nhiều cùng với những lễ hội tôn giáo tấp nập. Cùng với xu thế toàn cầu hóa, đa
dạng hóa, thế tục hóa là xu thế chủ đạo của tôn giáo hiện nay. Thế tục hóa bằng tinh thần
nhập thế, tôn giáo can thiệp ngày càng sâu vào đời sống xã hội theo các xu hướng khác
nhau:
1. Xu hướng nhập thế nhằm mục đích cứu nhân độ thế: Với phương châm “Đạo
pháp, dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Phật giáo, “Tốt đời đẹp đạo” của Thiên Chúa giáo,
tôn giáo đang mở một lối đi chung với chủ nghĩa xã hội. Các hoạt động từ thiện, bảo vệ
hòa bình, bảo vệ môi trường của các tôn giáo đã đóng góp tích cực cho sự nghiệp “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
2. Xu hướng nhập thế nhằm trục lợi cá nhân: Trong xã hội hiện đại, đạo ngày càng
gắn với đời, nhiều nhà tu hành gần như đã trở về nếp sống thế tục mặc dù vẫn khoác áo tu
hành. Một số tu sĩ kinh doanh tôn giáo khoác áo tâm linh, lợi dụng sắc áo tu hành để trục
lợi cho bản thân. Nhiều tín đồ cũng không hiểu gì về giáo lí tôn giáo mà chỉ biết thực hiện
các nghi lễ tôn giáo trong quan hệ lấy lòng thần thánh để mong cầu s