Modelling the mechanical behaviour of rock under uniaxial
compression test by discrete element method with particle bonded model
Abstract: The paper presents the use of discrete element method (DEM)
via PFC2D software to simulate the mechanical behavior of rock under
uniaxial compression. The rock is modelled as a assembly of rigid circular
particles that are bonded togheter. By using the numerical model, the
author investigates some inluences of microparamters on the results of
simulations. Using the laboratory test of rock specimen, the
microparameters are calibrated to reproduce the results of the real test.
The calibration is done based on the uniaxial compression test of granite
specimen. The microparameters includes friction coefficient, bond
stiffness, tensile strength and shear strength of bond. The results of
simulations show the effects and the trend of influence of the
microparameters to the behavior of rock in compression model test. The
numerical model allows us to study the stress – strain relation, the crack
formulation and development under loading, the pattern of fracture and
also the post failure behavior.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mô phỏng ứng xử cơ học của đá khi nén một trục bằng phương pháp phần tử rời rạc sử dụng mô hình gắn kết kép, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2 - 2020 4
MÔ PHỎNG ỨNG XỬ CƠ HỌC CỦA ĐÁ KHI NÉN
MỘT TRỤC BẰNG PHƯƠNG PHÁP PHẦN TỬ RỜI RẠC
SỬ DỤNG MÔ HÌNH GẮN KẾT KÉP
NGUYỄN QUANG TUẤN*
Modelling the mechanical behaviour of rock under uniaxial
compression test by discrete element method with particle bonded model
Abstract: The paper presents the use of discrete element method (DEM)
via PFC2D software to simulate the mechanical behavior of rock under
uniaxial compression. The rock is modelled as a assembly of rigid circular
particles that are bonded togheter. By using the numerical model, the
author investigates some inluences of microparamters on the results of
simulations. Using the laboratory test of rock specimen, the
microparameters are calibrated to reproduce the results of the real test.
The calibration is done based on the uniaxial compression test of granite
specimen. The microparameters includes friction coefficient, bond
stiffness, tensile strength and shear strength of bond. The results of
simulations show the effects and the trend of influence of the
microparameters to the behavior of rock in compression model test. The
numerical model allows us to study the stress – strain relation, the crack
formulation and development under loading, the pattern of fracture and
also the post failure behavior.
Keywords:Modelling, PFC, DEM, UCS, rock, granite
1. GIỚI THIỆU *
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát
triển của công nghệ máy tính, các phƣơng pháp
mô phỏng số đƣợc phát triển mạnh mẽ và áp
dụng rất nhiều trong nghiên cứu các bài toán địa
kỹ thuật. Các phƣơng pháp số sử dụng trong địa
kỹ thuật có thể chia thành 2 nhóm cơ bản: nhóm
phƣơng pháp liên tục và nhóm phƣơng pháp
không liên tục. Đối với lĩnh vực cơ học đá, mục
đích của việc sử dụng phƣơng pháp số để là mô
phỏng các ứng xử cơ học phức tạp của đá và có
thể đƣợc tái hiện các ứng xử thực tế. Khi nghiên
cứu các ứng xử cơ học của đá bằng các phƣơng
pháp liên tục, đá đƣợc coi là vật liệu liên tục,
các ứng xử của vật liệu đƣợc xét gián tiếp thông
* Bộ môn Địa kỹ thuật, Trường Đại học Thủy lợi
175 Tây Sơn - Đống Đa - Hà Nội
Email: nqtuan@tlu.edu.vn
qua các mô hình vật liệu (constitutive models).
Do đó, các phƣơng pháp liên tục có những hạn
chế khi cần phải mô tả chi tiết các tính chất của
đá. Trong khi đó, phƣơng pháp không liên tục
lại coi vật liệu đá là tập hợp của các phần tử
riêng rẽ có liên kết với nhau và sự phá vỡ các
gắn kết giữa các phần tử biểu diễn quá trình phá
hủy. Các tính chất cơ học của đá nứt nẻ hoặc đá
có thành phần không đồng nhất có thể đƣợc
nghiên cứu bằng việc xét chi tiết các thành phần
trong mô hình. Phƣơng pháp phần tử rời rạc có
thể giải quyết đƣợc hạn chế này. Phƣơng pháp
phần tử rời rạc đƣợc Cundall giới thiệu để phân
tích bài toán cơ học đá [1] và sau đó áp dụng
cho đất rời [2]. Phƣơng pháp này đã và đang
đƣợc phát triển mạnh mẽ và ứng dụng cho nhiều
lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong lĩnh vực
địa cơ học [3, 4]. Lý thuyết của phƣơng pháp
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2 - 2020 5
đƣợc trình bày, mô tả đầy đủ và chi tiết trong
các tài liệu [5, 6]. Ngày càng nhiều các nhà khoa
học sử dụng phƣơng pháp này cho nghiên cứu.
Bài báo này sẽ giới thiệu một ứng dụng của
phƣơng pháp phần tử rời rạc trong việc mô
phỏng vật liệu đá liên tục thông qua sử dụng
phần mềm PFC (Particle Flow Code).
Để nghiên cứu khả năng mô phỏng của
phƣơng pháp phần tử rời rạc sử dụng phần mềm
PFC, thí nghiệm nén một trục đã đƣợc thực hiện
với mẫu đá granite tại phòng thí nghiệm Cơ học
đá của Đại học kỹ thuật Freiberg để xác định
tính chất cơ học của đá. Song song với thí
nghiệm thực, mô hình thí nghiệm nén một trục
không nở hông đã đƣợc xây dựng bằng phần
mềm PFC2D. Việc mô phỏng giúp chúng ta
hiểu rõ hơn về ứng xử của đá dƣới tác dụng của
tải trọng nén. Đồng thời, việc hiệu chỉnh thông
số mô hình để có kết quả giống thí nghiệm thực
giúp xác định các tham số chi tiết của mô hình
để có thể tái tạo ứng xử thực của đá.
2. PHẦN MỀM PFC VÀ MÔ HÌNH
GẮN KẾT
2.1 Giới thiệu phần mềm PFC2D
PFC là phần mềm mô phỏng dựa trên
phƣơng pháp phần tử rời rạc của Itasca, Inc.
Phần mềm PFC là phần mềm mô phỏng dựa
trên DEM, các tính chất cơ học của vật liệu
đƣợc mô tả bằng chuyển động của các hạt và
lực cùng mô men tác dụng ở các điểm tiếp xúc.
Phần mềm sử dụng các hạt tròn (PFC2D) hoặc
cầu (PFC3D) để mô phỏng và phân tích các bài
toán cơ học vật liệu. Đây là phần mềm đƣợc sử
dụng rất rộng rãi trong lĩnh vực địa kỹ thuật.
PFC có thể sử dụng để mô phỏng các ứng xử cơ
học của vật liệu rời và vật liệu liên tục. Tƣơng
tác giữa các phần tử (các hạt) đƣợc mô tả thông
qua mô hình độ cứng, mô hình ma sát và mô
hình gắn kết giữa các phần tử. Trong quá trình
tính toán, chuyển động của các phần tử tuân
theo các định luật chuyển động Newton và quy
luật quan hệ giữa lực và chuyển vị.
Đối với các vật liệu liên tục nhƣ đá, phần
mềm PFC2D xét đá là tập hợp của các hạt có
gắn kết tại các điểm tiếp xúc giữa các hạt. Ứng
xử cơ học của đá đƣợc mô phỏng thông qua việc
xét sự hình thành và phát triển của các vi khe
nứt trong tập hợp các phần tử. Khác với mô
hình liên tục, cần lƣu ý rằng các thông số đầu
vào mô hình PFC là các thông số chi tiết của các
hạt và các mối liên kết (tiếp xúc hoặc gắn kết)
tại các điểm tiếp xúc giữa các hạt. Các thông số
này không thể xác định trực tiếp bằng các thí
nghiệm mà phải xác định gián tiếp bằng việc
hiệu chỉnh mô hình thông qua so sánh kết quả
thí nghiệm mô hình với kết quả thí nghiệm thực.
Trong nghiên cứu này, phần mềm PFC2D
đƣợc sử dụng để mô phỏng thí nghiệm nén 1
trục đối với mẫu đá. Trong mô hình, vật liệu đá
đƣợc mô phỏng bằng tập hợp các phần tử hạt
tròn không biến dạng, đƣợc liên kết với nhau
bằng gắn kết kép (parallel bonds) giống nhƣ đặc
điểm kiến trúc của đá. Độ bền của đá đƣợc
quyết định bởi mối gắn kết giữa các hạt và các
gắn kết này đóng vai trò nhƣ xi măng kết dính
giữa các hạt.
2.2 Mô hình gắn kết kép trong PFC
Mô hình gắn kết kép, hay còn gọi là mô hình
gắn kết song song (Linear Parallel Bond Model)
đƣợc Potyondy và Cundall giới thiệu với mục
đích mô phỏng gắn kết giữa các hạt khoáng vật
trong đá [7]. Đây là mô hình tuyến tính đƣợc
thiết lập tại điểm tiếp xúc giữa hạt với hạt hay
hạt với vách. Các thành phần trong gắn kết kép
làm việc và mô tả tƣơng tác đàn hồi giữa các
hạt. Sự có mặt của gắn kết kép vẫn cho phép
khả năng trƣợt. Các gắn kết có thể truyền lực và
mô men giữa các hạt, trong khi các gắn kết đơn
(single bond) chỉ có khả năng truyền lực. Mô
hình gắn kết kép đƣợc sử dụng phổ biến nhất để
tạo mô hình các hạt gắn kết (Parallel bonded
model, hay viết tắt là PBM) để mô phỏng vật
liệu liên tục.
Mô hình gắn kết kép có thể coi nhƣ phần xi
măng gắn kết giữa các hạt tại vị trí tiếp xúc trên
một diện tích nhất định. Gắn kết này không chỉ
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2 - 2020 6
chống kéo, chống cắt mà còn chống cả mô men
do chuyển động xoay các hạt gây ra (hình 1).
Độ bền của gắn kết xác định bởi ứng suất kéo và
ứng suất cắt lớn nhất mà gắn kết có thể chịu
đƣợc, đƣợc tính theo lý thuyết dầm. Khi ứng
suất vƣợt quá độ bền của gắn kết, gắn kết sẽ bị
phá vỡ và chuyển thành gắn kết đơn (hình 2).
Khi gắn kết bị phá vỡ sẽ làm giảm độ cứng do
độ cứng của gắn kết kép bao gồm cả độ cứng
gắn kết và độ cứng tiếp xúc.
Gắn kết kép đƣợc mô hình hóa bằng một liên
kết đàn hồi tuyến tính (phần tử lò xo) đƣợc đặc
trƣng bởi độ cứng pháp tuyến và độ cứng tiếp
tuyến, phân bố đều trên tiết diện ngang nằm trên
mặt tiếp xúc và tâm là ở tại điểm tiếp xúc giữa 2
phần tử. Các liên kết đàn hồi của mô hình gắn
kết làm việc cùng liên kết đàn hồi của mô hình
tiếp xúc tuyến tính. Chuyển động tƣơng đối giữa
2 phần tử tại tiếp xúc, xảy ra sau khi gắn kết kép
đƣợc thiết lập, tạo ra lực và mô men phát triển
trong gắn kết. Lực và mô men này tác dụng lên
2 phần tử và có thể liên quan tới ứng suất pháp
tuyến và tiếp tuyến lớn nhất tác dụng trong vật
liệu gắn kết ở biên gắn kết. Nếu các ứng suất đó
vƣợt quá độ bền gắn kết tƣơng ứng, gắn kết kép
sẽ bị phá vỡ và vật liệu gắn kết bị loại khỏi mô
hình cùng với lực, mô men và độ cứng.
Hình 1. Minh họa mô hình gắn kết kép trong
PFC2D [8]
Hình 2. Minh họa quá trình phá hủy gắn kết [8]
Lực tại gắn kết kép bao gồm 2 thành phần:
pháp tuyến và tiếp tuyến, và mô men tại gắn kết
kép phân thành 2 thành phần: mô men uốn và
mô men xoắn.
Mô hình gắn kết kép gồm 2 mặt liên kết: một
liên kết vô cùng nhỏ, đàn hồi tuyến tính (không
chịu kéo) và ma sát có thể truyền lực và một
liên kết có kích thƣớc hữu hạn, đàn hồi tuyến
tính và có dính kết có thể truyền lực và mô men.
Liên kết thứ nhất tƣơng đƣơng với mô hình
tuyến tính của tiếp xúc không gắn kết: không có
khả năng chống lại chuyển động xoay và trƣợt
đƣợc xác định bằng giới hạn Coulomb về lực
cắt. Liên kết thứ 2 đƣợc gọi là gắn kết kép, do
khi có gắn kết, gắn kết này song song với liên
kết thứ nhất. Khi gắn kết thứ 2 làm việc, nó có
khả năng chống chuyển động xoay và ứng xử
tuyến đàn hồi tuyến tính cho đến khi đạt tới giới
hạn độ bền và gắn kết bị phá vỡ, làm cho nó trở
thành không gắn kết. Khi gắn kết thứ 2 không
còn làm việc, nó sẽ không còn khả năng chịu
tải. Lúc này mô hình gắn kết kép tuyến tính
không gắn kết tƣơng đƣơng với mô hình tiếp
xúc giữa các phần tử.
Về mặt cơ học, có thể hình dung mô hình gắn
kết kép là một cặp lò xo đàn hồi phân bố trên
một diện tích có độ cứng theo phƣơng pháp
tuyến và tiếp tuyến đối với mặt tiếp xúc. Mô
hình gắn kết kép gồm có các thành phần đƣợc
biểu diễn nhƣ Hình 3.
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2 - 2020 7
Khi mô phỏng vật liệu liên tục nhƣ đá, mô
hình gắn kết kép tuyến tính sẽ đƣợc gắn vào vị
trí các tiếp xúc nếu nó đƣợc gắn kết hoặc nếu
khoảng trống giữa 2 bề mặt nhỏ hơn hoặc bằng
không. Quy luật giữa lực-dịch chuyển sẽ ngừng
làm việc với các tiếp xúc không hoạt động.
Khoảng trống giữa sẽ đƣợc gán với kích hoạt.
Hình 3. Mô hình gắn kết trước và sau khi bị phá
vỡ và các thành phần của mô hình gắn kết
3. THÍ NGHIỆM NÉN MỘT TRỤC VÀ
MÔ HÌNH PFC2D
3.1 Vật liệu thí nghiệm
Trong nghiên cứu này, kết quả thí nghiệm
thực của một mẫu đá đƣợc lấy làm ví dụ để so
sánh, hiệu chỉnh các thông số mô hình. Mẫu đá
dùng để thí nghiệm là đá granite đƣợc lấy ở
vùng Erzgebirge (vùng núi quặng) thuộc địa
phận bang Sachsen, CHLB Đức. Công tác thí
nghiệm đƣợc thực hiện ở phòng thí nghiệm cơ
học đá, Viện địa kỹ thuật, Đại học
Bergakademie Freiberg. Đá có kiến trúc toàn
tinh, các tinh thể hạt lớn, cấu tạo khối đặc xít
(Hình 4). Các thông số hình học và cơ lý của
mẫu đá đƣợc trình bày trong Bảng 1.
Mẫu đá thí nghiệm có hình trụ tròn, hai đầu
mẫu đƣợc gia công phẳng nhẵn. Mẫu đƣợc gia
tải bằng máy nén MTS-185, biến dạng mẫu
đƣợc đo liên tục cho tới khi mẫu bị phá hủy.
Hình 5 là thiết bị máy nén xác định độ bền nén
1 trục.
Bảng 1. Thông số hình học và cơ lý
của mẫu đá granite
Thông số Giá trị
Đƣờng kính [mm] 55.4
Chiều dài [mm] 108
Khối lƣợng riêng [kg/m3] 2590
Độ bền kháng nén 1 trục [MPa] 108,76
Mô đun đàn hồi [Gpa] 30,4
Hệ số Poisson 0.26
Độ bền kháng kéo [MPa] 7.02
Hình 4. Mẫu granite thí nghiệm nén một trục
Hình 5. Thiết bị máy nén MTS-185
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2 - 2020 8
3.2 Mô hình hóa thí nghiệm bằng PFC2D
Khi xây dựng mô hình trong PFC, việc tạo
mô hình đóng vai trò rất quan trọng vì đòi hỏi
các bƣớc tỉ mỉ. Đối với việc tạo mô hình mẫu
đá, các bƣớc thực hiện nhƣ sau: Các bƣớc tạo
mô hình không đƣợc tích hợp sẵn trong phần
mềm mà phải sử dụng ngôn ngữ lập trình cùng
các hàm FISH.
Trong mô hình PFC2D, mẫu thí nghiệm đƣợc
tạo ra với kích thƣớc bằng đúng kích thƣớc mẫu
thực. Vật liệu đá trong mô hình số đƣợc tạo bởi
tập hợp các hạt tròn có bán kính từ 0.5mm đến
0.75mm phân bố theo quy luật Gauss, độ lỗ
rỗng của tập hợp là 15%. Hai phần tử vách
phẳng (wall) đƣợc đặt tại 2 đầu mẫu. Tải trọng
đƣợc tác dụng lên mẫu đƣợc tạo ra bằng cách di
chuyển tấm vách neo phƣơng nén. Mô hình
PFC2D của mẫu thí nghiệm đƣợc trình bày ở
Hình 6.
Các bƣớc tạo mẫu đá mô hình: (1) Tạo không
gian hình chữ nhật giới hạn bởi bởi các biên
không ma sát là các phần tử wall (vách phẳng);
(2) Tạo các tập hợp hạt trong không gian hình
chữ nhật, số hạt đƣợc tính để tạo ra tập hợp có
độ lỗ rỗng cần thiết. Đƣờng kính từ 0.5mm đến
0.75 đƣợc đặt ngẫu nhiên trong không gian,
phân bố theo quy luật Gauss; (3) Gán các gắn
kết vào vị trí tiếp xúc giữa các hạt cùng các
thuộc tính của gắn kết. (4) Xóa 2 vách bên, để
lại 2 vách trên và dƣới mẫu. Hai vách trên và
dƣới sẽ đƣợc sử dụng để gia tải nén.
Phần mềm PFC có thể ghi lại quá trình hình
thành các khe nứt. Mô phỏng tập trung vào cơ
chế phá hủy của đá từ góc nhìn chi tiết và phân
tích quá trình biến dạng từ giai đoạn đàn hồi
tuyến tính tới giai đoạn phá hủy. Để có thể xét
sự hình thành và phát triển các khe nứt, các gắn
kết có thể bị phá vỡ. Có 2 loại khe nứt, khe nứt
cắt và khe nứt kéo. Khi ứng suất vƣợt quá độ
bền kháng cắt của gắn kết sẽ xuất hiện khe nứt
cắt. Khi ứng suất vƣợt quá độ bền pháp tuyến
của gắn kết sẽ xuất hiện khe nứt căng. Sự hình
thành các vi khe nứt làm giảm ứng suất trong
mẫu đá và dẫn đến mẫu đá bị phá họa do hình
thành vùng phá hoại cắt khi nén.
Hình 6. Mẫu đá trong mô hình PFC2D
4. KẾT QUẢ MÔ PHỎNG
4.1 Ứng xử cơ học của mẫu khi nén
Bằng mô phỏng, mô hình số phần tử rời rạc
sử dụng gắn kết kép cho phép nghiên cứu sự
hình thành và phát triển của các khe nứt trong
mẫu đá trong quá trình nén. Từ đó, có thể
nghiên cứu ứng xử của mẫu và cơ chế phá hoại
mẫu một cách chi tiết. Trong nghiên cứu này,
mẫu đá đƣợc nén với tốc độ 0,05m/giây. Hình 7
là biểu đồ đƣờng quan hệ ứng suất và biến dạng
cùng với biểu đồ về số lƣợng vi vết nứt trong
mẫu. Kèm theo là các hình ảnh mẫu đá mô
phỏng với hiện trạng nứt trong mẫu ở các thời
điểm khác nhau. Khi một gắn kết giữa 2 phần tử
bị phá vỡ, 1 vết nứt đƣợc hình thành. Hàm Fish
cho phép đếm số vết nứt theo quá trình mô
phỏng. Khi các vi khe vết liên tục nhau sẽ hình
thành bề mặt phá hoại. Điểm A tƣơng ứng với
mẫu trong giai đoạn khi bắt đầu nén, điểm B
tƣơng ứng với thời điểm bắt đầu hình thành khe
nứt trong mẫu, điểm C tƣơng ứng với thời điểm
các vết nứt bắt đầu kết nối nhau, điểm D ứng
suất nén đạt giá trị cực đại và E tƣơng ứng với
thời điểm sau ứng suất đỉnh, mẫu bị phá hủy
hoàn toàn.
Nhƣ trong Hình 7, trƣớc khi xuất hiện các
khe nứt trong mẫu, mẫu đá ở trạng thái đàn hồi
tuyến tính. Giai đoạn này biến dạng mẫu do
biến dạng các gắn kết kép. Khi bắt đầu hình
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2 - 2020 9
thành vết nứt, đƣờng quan hệ ứng suất biến
dạng thay đổi độ dốc, chuyển từ tuyến tính sang
phi tuyến, tuy nhiên không rõ ràng. Giai đoạn
này các vết nứt hình thành rời rạc, chƣa kết nối
nhau. Số lƣợng khe nứt tăng chậm. Khi số lƣợng
vết nứt bắt đầu tăng đột ngột, một số vùng trong
mẫu đá có các vết nứt kết nối với nhau tạo thành
một số khu vực tập trung khe nứt cục bộ, quan
hệ ứng suất biến dạng biểu hiện tính phi tuyến
rõ hơn. Tiếp tục nén tới giá trị ứng suất cực đại,
các vết nứt tiếp tục phát triển và kết nối với
nhau hình thành mặt trƣợt liên tục, mẫu bắt đầu
phân thành các mảnh. Ngay sau ứng suất cực
đại, trƣợt xảy ra và số lƣợng vết nứt tăng nhanh
chóng, các vết nứt tập trung kết nối hình thành
thêm mặt trƣợt liên tục, mẫu phân thành mảnh
tách rời nhau.
Hình 7. Biểu đồ thí nghiệm nén một trục và sự phát triển số lượng vết nứt
4.2 Hiệu chỉnh mô hình mẫu so với thí
nghiệm mẫu đá trong phòng
Kết quả thí nghiệm trong phòng của mẫu đá
granite đƣợc dùng để so sánh, hiệu chỉnh mô
hình thí nghiệm PFC. Trong phạm vi nghiên
cứu này, tác giả sử dụng đƣờng quan hệ ứng
suất – biến dạng từ kết quả thí nghiệm nén một
trục để so sánh. Các thông số mô hình đƣợc thay
đổi để cho kết quả độ bền kháng nén một trục và
mô đun đàn hồi từ thí nghiệm mô hình gần sát
nhất với kết quả thí nghiệm trong phòng. Các
thông số mô hình đã đƣợc hiệu chỉnh để khớp
mô đun đàn hồi (thể hiện qua độ dốc đƣờng ứng
suất biến dạng) và độ bền kháng nén đơn trục
giữa thí nghiệm số và thí nghiệm thực tế trong
phòng (hình 8)) đƣợc trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2. Các thông số mô hình
Các thông số của hạt
Khối lƣợng riêng, (kg/m3) 2590
Bán kính hạt nhỏ nhất, Rmin (mm) 0,25
Tỷ số giữa bán kính Rmax/Rmin 3,0
Mô đun đàn hồi của hạt, Ec (GPa) 17,0
Tỷ số giữa độ cứng pháp tuyến và độ
cứng cắt của hạt, kn/ks
1
Các thông số của gắn kết kép
Hệ số bán kính gắn kết
Bán kính gắn kết = .min(
bán kính của 2 hạt có gắn kết
1,0
Mô đun đàn hồi của gắn kết, (GPa) 17,0
Tỷ số giữa độ cứng pháp tuyến và độ
cứng cắt của gắn kết,
1,0
Độ bền kháng kéo của gắn kết, (Mpa) 90,0
A
B
C
D
E
ĐỊA KỸ THUẬT SỐ 2 - 2020 9
0
20
40
60
80
100
120
0 0.001 0.002 0.003 0.004 0.005 0.006 0.007
Ƣ
n
g
s
u
ất
n
én
[
M
P
a]
Biến dạng H/H
Thí nghiệm
trong phòng
Thí nghiệm mô
hình PFC2D
Hình 8. Quan hệ ứng suất- biến dạng theo kết
quả thí nghiệm trong phòng và thí nghiệm mô
hình PFC2D
Lƣu ý, các thông số trong Bảng 2 là các
thông số đầu vào của mô hình PFC, đó là các
thông số chi tiết (micro parameters), không phải
là thông số của mẫu đá.
Kết quả hiệu chỉnh bƣớc đầu cho thấy, mô
hình số cho kết quả mô đun đàn hồi và độ bền
kháng nén đơn trục rất sát với kết quả thí
nghiệm trong phòng. Tuy nhiên, so sánh
đƣờng cong nén thấy có sự khác nhau. Giai
đoạn nén ban đầu, tƣơng ứng với giai đoạn
các vi khe nứt khép lại, đƣờng quan hệ ứng
suất biến dạng thực tế là phi tuyến trong khi
kết quả thu đƣợc từ mô hình là tuyến tính.
Nguyên nhân là do ở mô hình số, mẫu đá ban
đầu không có các vi khe nứt, do đó không thể
có quá trình thu hẹp các vi khe nứt trong quá
trình nén. Bên cạnh đó, mô hình gắn kết kép
không thể mô tả biểu hiện này. Để mô phỏng
đƣợc đúng ứng xử phi tuyến ở giai đoạn này
cần sử dụng mô hình gắn kết khác. Ngoài ra, ở
thí nghiệm mô hình, ứng suất nén giảm đột
ngột sau khi đạt giá trị cực đại (sau phá hoại),
chƣa khớp với kết quả thí nghiệm thực cũng
chƣa khớp nhau. Sự khác biệt này có thể đƣợc
khắc phục bằng việc tiếp tục hiệu chỉnh các
thông số mô hình.
4.3 Ảnh hƣởng của các thông số mô hình
tới kết quả thí nghiệm
Các thông số mô hình đƣợc xác định thông
qua hiệu chỉnh dựa trên kết quả thí nghiệm
trong phòng cơ bản nhƣ: thí nghiệm nén một
trục, thí nghiệm nén đƣờng sinh, thí nghiệm
nén ba trục Quá trình xác định các thông
số mô hình thực chất là quá trình hiệu chỉnh
các thông số sao cho kết quả thí nghiệm mô
hình số khớp với kết quả thí nghiệm thực
tƣơng ứng.
Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung
nghiên cứu các thông số có ảnh hƣởng tới tính
biến dạng và độ bền của mẫu đá đƣợc mô
phỏng. Các thông số nghiên cứu bao gồm: hệ số
ma sát giữa các hạt, mô đun đàn hồi của gắn kết,
độ bền kéo của gắn kết và lực liên kết dính của
gắn kết. Với mỗi thông số, tác giả chọn các giá
trị khác nhau để mô phỏng, so sánh và đánh giá
dựa trên mô đun đàn hồi, độ bền kháng nén,
dạng đƣờng cong quan hệ giữa ứng suất biến
dạng để đánh giá.
Trong quá trình nghiên cứu ảnh hƣởng của
các thông số, tác giả thay đổi giá trị từng thông
số trong khi các thông số còn lại đƣợc giữ
không đổi để so sánh kết quả.
a) Ảnh hƣởng của hệ số ma sát:
Khi gắn kết bị phá vỡ, các hạt có thể
chuyển động trƣợt hoặc xoay. Khi đó, ma sát
giữa các hạt đƣợc huy động để kháng lại các
chuyển động giữa các hạt có tiếp xúc với
nhau, tạo ra sức kháng cắt và độ bền kháng
nén của mẫu mô phỏng. Các giá trị hệ số ma
sát khác nhau đƣợc gán cho hạt và chạy mô
hình để xem xét ảnh hƣởng của hệ số ma sát
tiếp xúc giữa các hạt tới mô hình. Giá trị hệ số
ma sát giữa