Nghi lễ đón nhân bằng công nhận Di sản ký ức thế giới khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương cho Mộc bản kinh chùa Vĩnh
Nghiêm sẽ diễn ra vào ngày 7/10 tới tại Bắc Giang.
Như vậy, sau Mộc bản triều Nguyễn và Bia đá Văn Miếu -Quốc Tử Giám Việt Nam, Mộc bản kinh chùa Vĩnh Nghiêm
là di sản thứ ba được UNESCO công nhận là di sản văn hóa
thế giới.
7 trang |
Chia sẻ: nyanko | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mộc bản kinh chùa Vĩnh Nghiêm trở thành di sản Thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mộc bản kinh chùa Vĩnh
Nghiêm trở thành di sản
Thế giới
Nghi lễ đón nhân bằng công nhận Di sản ký ức thế giới khu
vực Châu Á - Thái Bình Dương cho Mộc bản kinh chùa Vĩnh
Nghiêm sẽ diễn ra vào ngày 7/10 tới tại Bắc Giang.
Như vậy, sau Mộc bản triều Nguyễn và Bia đá Văn Miếu -
Quốc Tử Giám Việt Nam, Mộc bản kinh chùa Vĩnh Nghiêm
là di sản thứ ba được UNESCO công nhận là di sản văn hóa
thế giới.
Bộ Mộc bản kinh chùa Vĩnh Nghiêm có tổng cộng 3.050 bản,
hầu hết được khắc trong khoảng thời gian từ thế kỉ 17 đến thế
kỉ 19. Trong đó chủ yếu là kinh, sách, các văn bản về giới
luật nhà Phật và một số trước tác về thơ, phú, nhật kí của
một số vị cao tăng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Với những
giá trị to lớn như vậy, kho mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được
đánh giá là “bảo vật quốc gia”.
Những mộc bản này đều do chính các nghệ nhân vùng Bắc
Giang, Bắc Ninh và Hải Dương tổ chức khắc trong nhiều
khoảng thời gian khác nhau. Vật liệu dùng làm bản khắc là
gỗ thị và hầu hết được khai thác tại vườn chùa. Đây là loại gỗ
thường được dùng để làm bản khắc in vì gỗ mềm, mịn, dai,
dễ khắc, ít cong vênh, khó nứt vỡ.
Một bản khắc mộc bản kinh Phật cổ vô giá
Các mộc bản được khắc bằng chữ Hán hoặc Nôm với kĩ thuật
khắc ngược, đây là một kĩ thuật rất khó và tinh vi để khi in ra
giấy sẽ trở thành chữ xuôi. Mỗi mặt khắc tương ứng với 2
trang sách. Kiểu chữ rất chân phương và sắc nét. Điều đó
chứng tỏ các nghệ nhân người Việt xưa không chỉ giỏi về
mặt kĩ thuật mà còn là những người rất am hiểu về cách thức
tổ chức văn bản, cũng như thông thạo về chữ Hán và chữ
Nôm, một loại hình chữ viết cổ có cấu tạo rất phức tạp của
người Việt.
Kích thước các mộc bản không giống nhau tùy theo từng loại
kinh sách. Bản khắc lớn nhất có chiều dài hơn 1m, rộng 40
đến 50cm, bản nhỏ nhất chỉ khoảng 15 x 20cm. Qua quan sát,
người ta thấy rằng, bề mặt các ván in được phủ một lớp màu
đen bóng, đó chính là dấu vết của mực in còn sót lại trên bề
mặt bản khắc sau những lần in ấn. Và cũng chính nhờ có lớp
mực in này bảo vệ nên các bản khắc vẫn tồn tại bền bỉ qua
thời gian mà không hề bị mối mọt, ẩm mốc phá hỏng.
Ngoài những giá trị về mặt hiện vật, bộ mộc bản chùa Vĩnh
Nghiêm còn được các nhà nghiên cứu đánh giá là có giá trị
rất lớn về mặt học thuật. Dựa vào nội dung các mộc bản này,
người ta có thể giải mã được rất nhiều vấn đề thuộc về quá
khứ như: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, khoa học kĩ thuật, văn
học nghệ thuật, triết học, xã hội học, ngôn ngữ học... Đặc
biệt, sự xuất hiện hai loại hình chữ viết Hán và Nôm trên các
mộc bản này còn là cơ sở giúp cho các nhà ngôn ngữ học và
sử học lí giải được lịch sử và tiến trình phát triển chữ viết của
người Việt, nhất là quá trình chuyển biến từ chữ Hán (của
người Trung Quốc) sang chữ Nôm (loại chữ viết tượng hình
do người Việt sáng tạo ra trên cơ sở của chữ Hán). Điều này
không chỉ phản ánh sự phát triển về mặt ngôn ngữ và chữ
viết mà còn cho thấy tính tự tôn dân tộc của người Việt.
Cho đến nay, dù đã trải qua gần ba thế kỷ, những hoa văn,
chữ nổi trên ván kinh bằng gỗ thị vẫn còn rất sắc nét, không
hề bị mối mọt.