1. Đặt vấn đề
Đồng bằng sông Hồng là vùng có lịch sử khai phá lâu đời ở Việt Nam. Mỗi đặc
điểm tự nhiên và nhân văn của vùng đều có những nét riêng, gắn bó và chi phối tới
hoạt động sản xuất của cư dân hàng nghìn năm qua. Tính cách, tập quán sản xuất,
phong tục tập quán. . . được định hình dưới tác động của điều kiện địa lí. Qua thời
gian sinh tồn, thích nghi, cải tạo và biến đổi tự nhiên để phục vụ cho sự phát triển
của mình, cư dân đồng bằng sông Hồng đã làm thay đổi điều kiện tự nhiên. Biểu
hiện của cảnh quan nhân văn ngày càng chiếm ưu thế so với cảnh quan tự nhiên.
Bởi vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư
dân đồng bằng sông Hồng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực
tiễn.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 9 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân đồng bằng sông Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Science., 2010, Vol. 55, N◦. 5, pp. 77-85
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÍ VÀ ĐẶC TRƯNG
SẢN XUẤT CỦA CƯ DÂN ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Cao Hoàng Hà
Đại học Sư phạm Hà Nội
1. Đặt vấn đề
Đồng bằng sông Hồng là vùng có lịch sử khai phá lâu đời ở Việt Nam. Mỗi đặc
điểm tự nhiên và nhân văn của vùng đều có những nét riêng, gắn bó và chi phối tới
hoạt động sản xuất của cư dân hàng nghìn năm qua. Tính cách, tập quán sản xuất,
phong tục tập quán. . . được định hình dưới tác động của điều kiện địa lí. Qua thời
gian sinh tồn, thích nghi, cải tạo và biến đổi tự nhiên để phục vụ cho sự phát triển
của mình, cư dân đồng bằng sông Hồng đã làm thay đổi điều kiện tự nhiên. Biểu
hiện của cảnh quan nhân văn ngày càng chiếm ưu thế so với cảnh quan tự nhiên.
Bởi vậy, nghiên cứu mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư
dân đồng bằng sông Hồng là hoạt động có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực
tiễn.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Đặc trưng sản xuất của cư dân đồng bằng Sông Hồng dưới
tác động của điều kiện địa lí
2.1.1. Tác động của điều kiện địa lí tự nhiên tới đặc trưng sản xuất
a. Địa hình
Đồng bằng Sông Hồng là châu thổ có địa hình cơ bản là thấp và bằng phẳng,
dốc thoải từ Tây Bắc xuống Đông Nam, độ cao giảm từ 10 – 15m đến mực nước
biển và có sự phân hóa giữa các khu vực. Sự phân hóa của địa hình cũng như các
điều kiện tự nhiên khác chi phối tập quán sản xuất của dân cư.
* Vùng rìa đồng bằng có 2 kiểu là đồng bằng thềm phù sa cổ xen đồi sót và
đồng bằng thềm phù sa cổ. Kiểu thứ nhất phổ biến ở rìa phía Bắc và Tây Bắc đồng
bằng. Địa hình phần lớn là gò đồi và bậc thềm cao ráo, mạng lưới sông suối thưa.
Cư dân ở đây chọn đồng ruộng ở địa thế cao. Tại những nơi có đồi gò thì cư dân
xây nhà tập trung ở chân đồi gò, để dành đất bằng cho canh tác, công tác chống
xói mòn được coi trọng. Ngày nay, phương thức sản xuất có nhiều thay đổi, nhiều
nông trường và trang trại hộ gia đình được hình thành, năng suất kinh tế cao hơn
77
Cao Hoàng Hà
với sản phẩm hàng hóa. Kiểu thứ hai đã xuống gần sông Hồng hoặc các chi lưu nên
chịu ảnh hưởng chế độ nước sông hơn. Nông dân biết tận dụng nước để tát tưới và
có thêm những cánh đồng phù sa mới phì nhiêu, kinh tế cũng trù phú hơn.
* Vùng trung tâm đồng bằng chịu ảnh hưởng của chế độ nước sông và thủy
triều rõ rệt hơn, được phân thành 4 kiểu.
Kiểu đồng bằng phù sa mới đất cao nằm ở tả, hữu ngạn sông Hồng. Đây là
khu vực bị bão lụt đe dọa nhiều nhất nhưng đất đai cũng màu mỡ nhất nên dân
cư tập trung đông. Vườn nhỏ được bố trí hợp lí nhằm tiết kiệm đất, đặc biệt là có
ao ở những nơi cần vượt đất làm nên nhà, sử dụng phương thức VAC (vườn – ao –
chuồng) nhằm khai thác tối đa tài nguyên.
Tại kiểu đồng bằng phù sa mới thấp nằm giữa hai lưu vực sông, để tránh lụt
cư dân đào nhiều sông, kênh tiêu nước, đây cũng là đường giao thông thủy nội bộ
nối các điểm quần cư với nhau. Phương thức VAC rất phổ biến nhưng ao rộng hơn,
vườn hẹp hơn.
Tại kiểu đồng bằng phù sa mới trũng rất tiêu biểu tại các tỉnh Hà Nam, Ninh
Bình không thể tiêu nước bằng kênh vì mực nước các sông lớn bao quanh đều cao
hơn nội đồng. Thời gian ngập úng kéo dài nên nông dân chỉ làm 1 - 2 vụ trong năm.
Thời gian nông vụ ít nên các ngành nghề thủ công nghiệp phát triển hoặc cư dân
di cư đi kiếm ăn theo thời vụ khá phổ biến. Hiện nay, người nông dân tích cực áp
dụng các biện pháp cải tạo, nhất là thủy lợi nên diện tích lầy thụt thu hẹp, nhờ đó
mà năng suất lúa cao hơn, cây trồng đa dạng hơn.
Các bãi bồi ngoài đê gồm hai kiểu phụ: bài bồi ven sông và bãi giữa. Tại các
bãi bồi không thuận lợi cho cây lúa, cư dân chuyển sang trồng hoa màu, cây công
nghiệp ngắn ngày và nghề cá, nhất là nghề vớt cá bột trên sông. Các bãi giữa chỉ
bị ngập sau khi lũ thật lớn thì cư dân tập trung thành 1 điểm quần cư có đê bao
quanh. Ngoài đê trồng cây hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày.
Vùng thứ ba là vùng ven biển với địa hình rất thấp, bằng phẳng gồm hai kiểu
phụ: đồng bằng ven biển hiện đại và đồng bằng tích tụ cửa sông. Tại đây, cư dân
quai đê lấn biển, đào kênh tạo thành hệ thống giao thông thủy bộ. Trong đê họ
trồng lúa, cói, ngoài đê phát triển đánh bắt hải sản và làm vận tải, kinh tế biển
phát triển rõ nhất trong đồng bằng Sông Hồng.
b. Khí hậu
Ngoài đặc điểm chung là tính chất nhiệt đới gió mùa ẩm, khí hậu đồng bằng
còn có nhiều đặc điểm riêng rất chú ý. Nhiệt độ không khí, lượng mưa, tổng nhiệt
đủ cho 2 vụ lúa phát triển. Vì thế theo như qui luật chung của các vùng lúa nước
trên thế giới, dân số tăng nhanh và sống tập trung với mật độ cao, tạo được những
thành tựu kinh tế, văn hóa to lớn.
Khí hậu đồng bằng độc đáo khác hẳn với tất cả các đồng bằng khác ở miền
Trung và miền Nam đó là có một mùa đông thực sự, do đó mà có dạng khí hậu 4
mùa tương đối rõ nét. Khí hậu 4 mùa với một mùa đông lạnh khiến cho mùa vụ ở
78
Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân...
đồng bằng Sông Hồng rất nghiêm ngặt. Cư dân đồng bằng rất quan tâm và hiểu
rõ chế độ mưa bởi cây trồng phụ thuộc rất chặt chẽ vào sự phân bố mưa và những
biến đổi trong mùa mưa. Tại đây, mùa mưa và mùa nhiệt khá trùng nhau nên việc
tận dụng tài nguyên nhiệt, nước, đất... khá thuận lợi. Trong mùa khô, các cơn mưa
phùn đóng vai trò rất quan trọng (trong mùa này lượng mưa thường dưới 100mm),
lượng ẩm ít ỏi của nó giúp cho nông dân có thể cấy lúa vào mùa khô, gặt lúa chiêm
và trồng nhiều cây khác không cần tát nước. Lượng mưa ở đây khá cao nhưng những
năm ít mưa sẽ gây ra khô hạn, nông dân thích ứng bằng cách xây dựng các hệ thống
thủy lợi đảm bảo nước tưới.
Tính thất thường của khí hậu gây ra những trở ngại đối với sản xuất nông
nghiệp của nông dân đồng bằng Sông Hồng. Các ngày bắt đầu và kết thúc của các
mùa cũng như thời tiết của từng năm bị thay đổi tùy thuộc vào nhịp điệu và cường
độ của các luồng gió mùa. Đợt gió mùa đông bắc lịch sử năm 2007 là một ví dụ điển
hình cho nhận định này: kéo dài 45 ngày liên tục, nhiệt độ thấp, nhiều ngày liên
tiếp nhiệt độ dưới 10oC khiến cho việc cấy hái, thu hoạch, làm cỏ, bón lót của nông
dân bị đảo lộn; nhiều cây trồng vật nuôi bị chết khi mới gieo giống hoặc chăn thả.
Tính chất của khí hậu chính là cơ sở cho hình thành phong cách cần cù, tiết kiệm,
kỹ thuật canh tác cao, biết lo lắng xây dựng nhà cửa vững chắc của cư dân nơi đây.
c. Thủy văn
Mạng lưới sông ngòi đồng bằng khá dày đặc, bao gồm hạ lưu và chi lưu của
hai sông lớn đổ ra biển là sông Hồng và sông Thái Bình, các sông nhỏ chảy trong
các ô nội địa và rất nhiều kênh đào tưới tiêu lớn nhỏ. Sông Hồng có lượng nước
phong phú đã góp phần bồi đắp, tạo nên đồng bằng Sông Hồng phù sa màu mỡ.
Vào mùa cạn dòng chảy nhỏ, ít phù sa và mùa lũ dòng chảy lớn, phù sa nhiều. Đặc
biệt, lũ sông Hồng khá thất thường và mãnh liệt. Ven bờ biển đồng bằng Sông Hồng
có chế độ nhật triều, biên độ triều khá cao và có sự chênh lệch tại nhiều khu vực
khác nhau, phần lớn đất đai đồng bằng Sông Hồng vẫn có thể bị ngập khi triều lên,
nước mặn theo thủy triều dọc các con sông cũng có thể vào sâu trong nội địa.
Chính vì vậy, thủy lợi là vấn đề đóng vai trò quan trọng đối với nông dân ở
đây, thậm chí nó còn quan trọng hơn vấn đề chống hạn. Đắp đê là một giải pháp
thông minh của đồng bằng. Nhờ đê điều chống lại được nước sông, nước biển mà
hoạt động sản xuất nông nghiệp của nông dân được thuận lợi hơn rất nhiều. Gần
như toàn bộ đời sống của cư dân đều phụ thuộc vào cách giải quyết tốt vấn đề thủy
lợi. Công tác thủy lợi của đồng bằng Sông Hồng hiện nay hiện đại nhất cả nước.
Nhờ vậy mà phần lớn đất trồng lúa của đồng bằng có khả năng canh thác 2 – 3 vụ
trong năm.
d. Thổ nhưỡng
Đất phù sa đóng vị trí quan trọng tại đồng bằng Sông Hồng. Đây là một hỗn
hợp cát trộn với limông, có nhiều nitơ, kali, mangiê... do đó, đất ở đâu cũng xốp, dễ
cày cấy và không thẩm thấu nên dễ dàng biến thành đồng ruộng được tưới nước.
Tính chất mầu mỡ và đa dạng của đất rất phù hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là
79
Cao Hoàng Hà
lúa và các cây hoa màu, điều đó cũng quyết định tới việc lựa chọn cơ cấu cây trồng
và phương thức canh tác của nông dân, thiết lập quần cư, số lượng và đặc trưng sản
xuất của đồng bằng.
2.1.2. Tác động của điều kiện địa lí kinh tế xã hội tới đặc trưng sản xuất
a. Con người đồng bằng Sông Hồng
Đồng bằng Sông Hồng có mật độ dân số cao nhất trong các đồng bằng tại
Việt Nam (1238 người/km2, một số vùng tuy là nông thôn thuần nông nhưng mật
độ có thể đạt trên 1500 người/km2 như Thái Bình, Nam Định. . . ). Do mật độ dân
cư đông nên diện tích canh tác bình quân của đồng bằng rất thấp, điều này đã góp
phần chi phối đến quá trình sản xuất của cư dân. Mặc dù nông dân đã có gắng tận
dụng thâm canh đất đai nhưng bình quân lương thực quy thóc và bình quân thu
nhập vẫn ở mức thấp. Do đó, bên cạnh các biện pháp chủ động giảm tốc độ gia tăng
dân số và di dân thì vùng luôn chú trọng công tác thủy lợi, cải tiến kĩ thuật canh
tác, lựa chọn giống thích hợp nhằm tăng mùa vụ và tăng năng suất cây trồng, cân
đối được lương thực, thực phẩm, trên cơ sở đó mà nâng cao đời sống của dân cư.
b. Lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
Nông nghiệp lúa nước ở đồng bằng sông Hồng có tính mùa vụ nên đòi hỏi
lao động nặng nhọc và tập trung. Duy trì mật độ dân số cao lại không cho phép
phát triển ngành chăn nuôi như ở các nước ôn đới, thu nhập bình quân đầu người
thấp. Tính thời vụ khắt khe của hoạt động trồng lúa làm xuất hiện hiện tượng dư
thừa lao động vào lúc nông nhàn và thiếu nhân lực vào lúc thời vụ (cày cấy và gặt
hái) luôn luôn diễn ra. Người nông dân luôn phải phát triển các nghề thủ công và
các nghề phi nông nghiệp khác để sử dụng lao động dư thừa trong lúc nông nhàn,
nhưng lao động dư thừa này ngay sau đó phải quay về với sản xuất nông nghiệp lúc
thời vụ. Do vậy các hoạt động phi nông nghiệp khó trở thành các hoạt động chuyên
môn hóa, tiến tới cho sự hình thành công nghiệp và là cơ sở cho sự phát triển của
đô thị. Công nghiệp là động lực cơ bản để chuyển dịch sự phân công lao động xã
hội và quá trình đô thị hóa. Nhưng quá trình phát triển công nghiệp ở đồng bằng
Sông Hồng diễn ra khá chậm chạp và gặp nhiều khó khăn.
Trong bối cảnh đó, cư dân trong vùng đã cố gắng tìm tòi để tạo ra những
chuyển dịch trong cơ cấu kinh tế tại nông thôn bằng cách tăng vụ, thay đổi cơ cấu
sử dụng đất, cơ cấu mùa vụ và phương thức canh tác. Cơ cấu ngành nghề tổng hợp
là một cơ sở vững chắc cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Bởi vì các hoạt động sản xuất tiểu thủ công nghiệp –
nông nghiệp tuy giá trị không cao, tăng không nhanh nhưng khá ổn định và vững
chắc. Nghề nông là một chỗ dựa vững chắc cho người nông dân khi các nghề tiểu
thủ công nghiệp, dịch vụ và buôn bán trở nên khó khăn, thất bát. Các làng nghề
trong vùng nổi tiếng cả nước như Bát Tràng, Ngũ Xá, Kiêu Kỵ, Vạn Phúc, Đông
Hồ. . . tuy hoạt động sản xuất thủ công nghiệp rất phát triển nhưng người nông dân
vẫn không vứt bỏ hẳn việc trồng lúa, vừa đảm bảo nguồn lương thực, vừa sử dụng
80
Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân...
tối đa thời gian nhàn rỗi. Tại vùng nông thôn ven biển có những thuận lợi trong
chuyển dịch cơ cấu kinh tế với xu hướng chung là vươn ra biển, phát triển tổng hợp
kinh tế biển (nghề đánh bắt và nuôi trồng hải sản, du lịch biển, giao thông vận tải
ven bờ).
c. Nền kinh tế tiểu nông trước đây và quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa hiện nay
Nền kinh tế mang tính tiểu nông có ảnh hưởng không nhỏ tới phương thức
sản xuất của cư dân. Nó thể hiện ở việc các ngành tiểu thủ công nghiệp được phát
triển trong thời gian nhàn rỗi của nông dân do tính mùa vụ của trồng lúa gây ra,
nhưng không thể tách ra khỏi nông nghiệp tiến tới sự phát triển của công nghiệp
trên quy mô lớn bởi sau thời kì nông nhàn là thời kì mùa vụ với đòi hỏi tập trung
cường độ lao động cao. Do đó, nền công nghiệp của đồng bằng Sông Hồng trước
đây nhỏ bé, vừa tầm với khả năng của nông dân, một nền công nghiệp nông dân,
phương tiện hạn chế, kĩ thuật tinh tế nhưng không có khả năng áp dụng trên quy
mô lớn và có lãi.
Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra với tốc độ tương đối nhanh
tại đồng bằng từ cuối những năm 90 của thế kỉ trước. Biểu hiện của nó là việc thành
lập các khu công nghiệp, mở rộng diện tích các đô thị và xây dựng các khu đô thị
mới. . . Tính đến năm 2007, vùng đồng bằng Sông Hồng có 34 khu công nghiệp tập
trung được thành lập, trong đó 23 khu đang hoạt động và 11 khu đang triển khai
xây dựng cơ bản. Tổng diện tích quy hoạch cho các KCN là 6.455 ha, trong đó diện
tích đất công nghiệp có thể cho thuê chiếm 66,3%. Các địa phương có nhiều KCN là
Hà Nội, Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hải Dương. Quá
trình này đã góp phần thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, thay đổi các quan hệ
sản xuất, phân công lao động xã hội (tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phổ biến trên
10%); cơ cấu ngành nghề và lối sống của dân cư thay đổi khá nhanh. Bộ mặt nông
thôn đổi mới theo hướng văn minh, hiện đại, hệ thống Điện – Đường – Trường –
Trạm hoàn thiện với mức độ cao bậc nhất cả nước. Nhiều tỉnh thuần nông trước
đây nhờ phát triển KCN sẽ trở thành những tỉnh công nghiệp như Vĩnh Phúc, Bắc
Ninh, Hưng Yên, Hải Dương. . . Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, các khu công
nghiệp tập trung của vùng đồng bằng Sông Hồng những năm qua cũng đã làm phát
sinh các vấn đề xã hội nổi cộm. Quá trình thu hồi đất nông nghiệp do phát triển
khu công nghiệp và xây dựng các khu đô thị mới đã làm cho hàng chục nghìn hộ
nông thôn, chủ yếu là nông dân mất đất sản xuất, thiếu việc làm, thu nhập thấp và
giảm dần. Người mất việc làm chủ yếu là nông dân, trình độ văn hóa, chuyên môn
thấp, chưa qua đào tạo nghề phi nông nghiệp nên cơ hội tìm việc làm ngoài nông
nghiệp là rất khó. Do đó, số lao động không có việc làm sau khi bị thu hồi đất tăng
nhanh ở tất cả các tỉnh. Thực tế là không phải tất cả lao động dư thừa do mất đất
nông nghiệp đều có việc làm mới ở các khu công nghiệp. Một bộ phận rất lớn nông
dân mất đất phải tự tìm việc làm một cách tự phát không ổn định với rất nhiều
ngành nghề để kiếm sống, phổ biến là sự di cư lên thành phố để làm thuê bằng các
81
Cao Hoàng Hà
loại hình dịch vụ với mức lương thấp. Hiện tượng này tập trung nhiều nhất là ở Hà
Nội, Hải Phòng và các khu công nghiệp mới, đô thị mới trong vùng và cả nước.
Việc thu hồi đất nông nghiệp do mở rộng các tại các vùng nông thôn tất yếu
ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống dân cư vùng này. Nhà nước đã có chính sách
đền bù cho họ tương đối thỏa đáng theo giá đất thị trường. Sau khi nhận tiền đền
bù giải tỏa, nhiều hộ nông dân có một khoản tiền khá lớn. Một số hộ có kinh nghiệm
kinh doanh, phát triển nghề phi nông nghiệp đã sử dụng nguồn vốn đó mở rộng sản
xuất, kinh doanh dịch vụ nên thu nhập và đời sống tăng cao so với trước kia. Song,
đại bộ phận hộ nông dân còn lại không biết cách sử dụng nguồn vốn đó một cách
có hiệu quả. Đời sống được thay đổi một cách nhanh chóng nhưng không xuất phát
từ nền tảng vững chắc nên có thể phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. . .
Môi trường sinh thái tại nhiều khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Việc mở
rộng diện tích đất công nghiệp và chuyên dùng làm cho đất nông nghiệp bị thu hẹp,
mật độ dân số ngày càng cao; trong khi đó các yếu tố có lợi cho môi trường sinh
thái như nguồn nước sạch, thảm thực vật, cây xanh giảm dần. Tại khu vực nông
thôn đã có sự phân hóa thu nhập và đời sống trong nội bộ dân cư.
d. Làng xã và sự thay đổi các quan hệ làng xã
Cơ sở của các điểm quần cư và sản xuất ở đồng bằng Sông Hồng chính là làng
xã. Sự cố kết của quan hệ làng xã là đặc trưng cơ bản của nông thôn truyền thống
đồng bằng Sông Hồng nói riêng. Ở đây nổi bật nhất là các quan hệ họ hàng, tông
tộc. Trong cuộc sống đô thị thực sự thì các quan hệ họ hàng, tông tộc không còn
được coi trọng nữa, nó phải nhường chỗ cho các quan hệ lớn giữa cá nhân và xã hội.
Trước đây, tâm lí làng xã nặng nề, kì hào, tự trị khiến cho nền sản xuất tại
các làng xã đồng bằng Sông Hồng nhỏ lẻ, gắn chặt với cây lúa; khiến cho tiểu thủ
công nghiệp không tách ra khỏi nông nghiệp để trở thành sản xuất lớn. Có một số
làng cổ chủ yếu làm nghề công thương được đô thị hóa, nhưng chúng lại không thể
chuyển hóa thành đô thị được như các làng Bát Tràng, Ninh Hiệp, Đình Bảng...
Mặt khác, sự cố kết của quan hệ làng xã cũng tạo điều kiện cho sự xâm nhập của
các quan hệ nông thôn vào đô thị. Tại các vùng nông thôn hiện nay, truyền thống
tình làng nghĩa xóm, trọng các giá trị cộng đồng vẫn là hạt nhân cơ bản của sự phát
triển làng xã, song xu hướng vươn lên làm giàu, chú trọng đến lợi ích vật chất là
một giá trị phổ biến. Nhu cầu tiêu dùng không còn là một giá trị xã hội bị lên án
nữa. Tính thiêng liêng của các giá trị tinh thần chung của cộng đồng, các hình thái
tín ngưỡng – tôn giáo là những giá trị văn hóa được tôn trọng, song quan niệm cũng
có nhiều thay đổi trong nhóm xã hội trọng sản xuất phi nông nghiệp hoặc có tính
di động xã hội cao. Một xu hướng mới cần chú ý là xã hội càng tiến bộ, bộ mặt đời
sống người dân càng thay đổi thì các hiện tượng sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng lại
càng phát triển. Đền, chùa, miếu, hội làng. . . được tu bổ và khôi phục ở khắp mọi
nơi, một mặt phục vụ nhu cầu tâm linh, một mặt phục vụ nhu cầu du lịch, tham
quan.
82
Mối quan hệ giữa điều kiện địa lí và đặc trưng sản xuất của cư dân...
Về cơ bản, quá trình chuyển đổi cơ cấu lao động – nghề nghiệp – kinh tế, đời
sống cư dân tiến bộ là nhân tố thúc đẩy quá trình thay đổi tính chất các mối quan
hệ xã hội trong làng xã. Chính quá trình này là nền tảng cho sự biến đổi các quan
hệ xã hội trong quá trình sản xuất ngay tại từng gia đình. Khi nghề nghiệp thay
đổi, nếp sống, nếp nghĩ của các thành viên trong gia đình cũng thay đổi theo dẫn
đến một hệ quả làm thay đổi các quan hệ xã hội bên trong gia đình và dòng họ. Mối
quan hệ xã hội gia đình đương đại đang bị ảnh hưởng bởi các quy luật kinh tế hàng
hóa, các mối quan hệ hàng – tiền. Sự tính toán thiệt hơn, tính toán giá thành. . . là
những yếu tố mới của sự hình thành một kiểu quan hệ xã hội khác truyền thống
mà nhiều nhà nghiên cứu gọi là quan hệ “duy lí”.
2.2. Những biến đổi của điều kiện địa lí dưới tác động của hoạt
động sản xuất
Đồng bằng Sông Hồng là vùng có những đặc điểm địa lí đặc trưng cho vùng
châu Á gió mùa. Nơi mà điều kiện địa lí tự nhiên đặc trưng là sự khắc nghiệt và
khắt khe của chế độ khí hậu, thủy văn, thổ nhưỡng và địa hình có sức chi phối lớn
đến việc lựa chọn phương thức canh tác và đặc trưng sản xuất. Bên cạnh đó các
đặc điểm nhân văn và các mối quan hệ phức tạp cũng mang những đặc điểm đặc
trưng riêng gắn với điều kiện tự nhiên ở đây. Tự nhiên và con người có mối quan hệ
hữu cơ, hài hòa và thống nhất, trong đó tự nhiên chi phối, ảnh hưởng đến phương
thức sản xuất, tập tục sinh hoạt và lối sống. Về phía mình, trong quá trình thích
nghi, cải tạo, biến đổi nhằm đảm bảo sự sinh tồn, con người cũng đã để lại dấu ấn
lên môi trường xung quanh mà biểu hiện rõ nét nhất là sự thay đổi của điều kiện tự
nhiên. Hiện nay, đồng bằng Sông Hồng có nền thâm canh nông nghiệp cao nhất cả
nước, có nhiều trung tâm công nghiệp và mạng lưới đô thị phát triển, cho nên vùng
đã bị xã hội hóa mạnh mẽ. Nhiều đặc điểm của điều kiện địa lí tự nhiên là do họat
động sản xuất và sinh hoạt của con người chi phối nhiều hơn là do sự phát triển tự
nhiên.
Tác động rõ nhận thấy nhất là sự thay đổi của địa hình châu thổ theo hướng
phức tạp hơn và bị phân cách rõ rệt hơn. Từ bề mặt bằng phẳng khá đồng nhất có
hướng nghiêng Tây Bắc – Đông Nam ban đầu, địa hình được san bằng thành ruộng
cấy lúa và giữ nước quanh năm để cấy lúa. Các con đê được hình thành để chống
lại sự ảnh hưởng của nước sông và sự xâm nhập của biển. Chúng đã biến đồng bằng
thành nhiều ô khép kín, cản trở quá trình bồi đắp tự nhiên. Về đại thể, nhiều dạng
địa hình mới được hình thành, sự đồng nhất của một châu thổ khá bằng phẳng đã
bị phá