Một bước quan trọng trong tiến trình quy hoạch và cấp quyền khai thác và quản lý mặt nước trên đầm phá Tam Giang

Căn cứ QĐ 1142 UBND Tỉnh Thừa Huế về việc phê duyệt kế hoạch giải tỏa sắp xếp lại nò sáo trên vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thuộc huyện Phú Vang. Căn cứ luật tổ chức hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân ngày 26 tháng 01 năm 2003; Căn cứ Quyết định số 2093/QĐ-UBND ngày 15/09/2007 của UBND Tỉnh ban hành chương trình hành động thực hiện nghị quyết số 06 NQ/TU ngày 15/06/2007 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế biển và đầm phá Tỉnh Thừa Thiên Huế từ nay đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2012; Căn cứ Quyết định số 3677/QĐ-UB ngày 25/10/2004 của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể quản lý khai thác thủy sản vùng đầm phá Thừa Thiên Huế đến năm 2010; Căn cứ Quyết định 4260/2005/QĐ-UB ngày 19/12/2005 của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế về quy hoạch quản lý khai thác thủy sản đầm phá Thừa Thiên Huế; Xét đề nghị của Sở Nông nghiệp và Phát triền nông thôn tại Công văn số 536/SNNPTNT-KH ngày 30/05/2011

docx16 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một bước quan trọng trong tiến trình quy hoạch và cấp quyền khai thác và quản lý mặt nước trên đầm phá Tam Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học Khoa học Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Huế Add: 77 Nguyễn Huệ, Huế Tel: 84 54 3832788 Fax: 84 54 3824 901 Tham vấn cộng đồng Một bước quan trọng trong tiến trình quy hoạch và cấp quyền khai thác và quản lý mặt nước trên đầm phá Tam Giang (Trường hợp cho Đội 16 xã Vinh Phú, Huyện Phú Vang, TT Huế) Huế, 9/2011 1.Các căn cứ xây dựng quy hoạch 1.a. Căn cứ pháp lý Căn cứ QĐ 1142 UBND Tỉnh Thừa Huế về việc phê duyệt kế hoạch giải tỏa sắp xếp lại nò sáo trên vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thuộc huyện Phú Vang. Căn cứ luật tổ chức hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân ngày 26 tháng 01 năm 2003; Căn cứ Quyết định số 2093/QĐ-UBND ngày 15/09/2007 của UBND Tỉnh ban hành chương trình hành động thực hiện nghị quyết số 06 NQ/TU ngày 15/06/2007 của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế biển và đầm phá Tỉnh Thừa Thiên Huế từ nay đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2012; Căn cứ Quyết định số 3677/QĐ-UB ngày 25/10/2004 của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế về việc phê duyệt Quy hoạch tổng thể quản lý khai thác thủy sản vùng đầm phá Thừa Thiên Huế đến năm 2010; Căn cứ Quyết định 4260/2005/QĐ-UB ngày 19/12/2005 của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế về quy hoạch quản lý khai thác thủy sản đầm phá Thừa Thiên Huế; Xét đề nghị của Sở Nông nghiệp và Phát triền nông thôn tại Công văn số 536/SNNPTNT-KH ngày 30/05/2011 1.b. Căn cứ thực tiễn Thực hiện Quyết định của UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế, một số địa phương quanh vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai đã tiến hành Quy hoạch, giải tỏa, sắp xếp, phân vùng đánh bắt và trao quyền quản lý mặt nước cho các chi Hội nghề cá ( cụ thể là huyện Phú Lộc) bước đầu đạt được các kết quả đáng khích lệ. Căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay của việc khai thác đánh bắt thủy sản trên đầm phá có liên quan đến nhiều yếu tố, trong đó có việc tạo điều kiện cho mọi người dân được tiếp cận với nguồn lực tài nguyên đầm phá, phát triển giao thông thủy, bảo vệ các khu bãi đẻ và phát triển các nguồn tài nguyên. Thực tế hiện nay, việc khai thác bằng các ngư cụ cố định trên địa bàn xã Vinh Phú nói riêng đang thiếu tính hợp lý, chưa đúng với điều kiện cho phép trong quy định. Việc phân vùng, ranh giới giữa xã Vinh Phú với các xã khác chưa có căn cứ, đặc biệt việc phân định ranh giới trên đầm phá giữa các thôn trong xã chưa rõ ràng. Điều này sẽ ảnh hưởng trước hết đến công tác quản lý mặt nước đối với chi Hội nghề cá. Xuất phát từ nhu cầu và nguyện vọng thiết thực của các hộ dân đang sinh sống trên địa bàn là được ổn định để phát triển sinh kế lâu dài và cùng tham gia quản lý tài nguyên. CSSH đã đựa vào các căn cứ như trên để tiến hành thu thập thông tin từ phía người dân làm cơ sở thực tiễn cung cấp cho các cơ quan chức năng trong việc quy hoạch, giải tỏa, sắp xếp và tiến tới trao quyền quản lý cho Chi hội nghề cá. 2. Mục tiêu a. Mục tiêu chung Quy hoạch vùng đánh bắt thủy sản và hướng đến cấp quyền khai thác, quản lý mặt nước đầm phá cho Chi HNC Đội 16 – xã Vinh Phú. b. Mục tiêu cụ thể Phổ biến Quyết định 1142 /QĐ-UBND Tỉnh Thừa Huế về việc phê duyệt kế hoạch giải tỏa sắp xếp lại nò sáo trên vùng đầm phá Tam Giang – Cầu Hai thuộc huyện Phú Vang. Vẽ lại hiện trạng ngư cụ đánh bắt thủy sản trên mặt nước xã Vinh Phú bằng phương pháp bản đồ có sự tham gia Sử dụng tri thức bản địa về phân vùng đánh bắt thủy sản, ranh giới giữa các thôn trong xã Vinh Phú, giữa xã Vinh Phú với các xã có cùng ranh giới với xã Vinh Phú. Cùng với người dân đưa ra hiện trạng ngư cụ cố định và lên phương án sắp xếp tại Vinh Phú. 3. Phương pháp và công cụ thực hiện Việc lựa chọn phương pháp và công cụ thực hiện được tuân thủ theo các căn cứ và quy trình nghiên cứu khoa học, cụ thể là: Nội dung nào phương pháp đó; dựa vào kinh nghiệm, năng lực, lĩnh vực chuyên môn và nguồn kinh phí của CSSH. Với yêu cầu trên, chúng tôi tiến hành phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA), trong đó sử dụng các công cụ như: Xây dựng bản đồ hiện trạng có sự tham gia, thảo luận nhóm tập trung, phỏng vấn sâu và một số công cụ khác. 4. Kết quả nghiên cứu khảo sát 4.1 Xác định ranh giới trên mặt nước Việc xác định ranh giới trên mặt nước không hoàn toàn như ranh giới đất liền, đó là một quá trình lâu dài, đòi hỏi kinh nghiệm được kế thừa và chuyển tiếp từ các thế hệ trong khai thác và đánh bắt thủy sản trên đầm phá. Đó cũng là kết quả của tri thức bản địa mà chỉ có các ngư dân với cuộc sống “bồng bềnh thủy diện” mới xây dựng nên. Xác định được tầm quan trọng của vấn đề, bằng phương pháp có sự tham gia, chúng tôi đã sử dụng hai hướng tiếp cận cơ bản để xác định ranh giới thôn/xã Vinh Phú trên mặt nước. a. Xác định ranh giới thôn phía đất liền Xã Vinh Phú có 06 thôn, bao gồm: Mộc Trụ, Trừng Hà, Triêm Ân, Hà Bắc, Điền Trung và Nghĩa Lập Thôn Mộc Trụ:Từ ranh giới xã Phú Đa (thôn Viễn Trình, có khe, Doi, cột mốc,am xóm và đường bê tông) đến Gioi Dái. Thôn Trừng Hà: Từ Gioi Dái đến đường làng gánh lúa (có cột mốc) của 2 thôn Thôn Hà Bắc từ khe nước chảy đến Doi Kẻ Lái (Giữa 2 thôn Điền Trung và Hà Bắc có một hàng đáy) Thôn Điền Trung từ Doi Kẻ Lái đến Doi Kẻ Chương ( có bến lội Hà Úc) Thôn Nghĩa Lập từ Doi Kẻ Chương đến chợ Hà Trung, nơi giáp ranh Với xã Vinh Hà. ` Ngoài ra, đường Dái (giới) của 2 xã Vinh Phú và Vinh Hà còn được xác định tại bãi đám. Bãi đám là nơi đám tang của người chết quê ở Vinh Phú nhưng ở xa đưa về làng đều phải dừng lại ở ranh giới này. Đến ngày nay vẫn còn áp dụng cho cả đám đi thuyền và đám đi bằng xe, đồng thời giáp ranh hai xã còn có kiệt và bến nước, là nơi giao lưu của hai xã. b. Xác định ranh giới từ phía bên ngoài (trên mặt nước) Việc xác định ranh giới phía bên ngoài phụ thuộc vào nhiều yếu tố: -Ban ngày: Nhìn từ ngoài đầm phá vào thấy các lùm dương hàng cây, khe nước chảy, hàng đáy của người dân hoặc bất kỳ vật nào cố định từ xưa đến nay. Nhìn và phán đoán bằng kinh nghiệm khoảng cách về địa lý khi so sánh với các vật cố định ở trên sông đầm như các hàng đáy, các cồn, các địa điểm nông, sâu của mặt nước. Ngoài ra, phần lớn ngư dân xác định bằng các khe nước từ trong đất liền chảy ra, vì chổ khe nước chảy ra thường có một dòng nước có màu khác với màu nước trên đầm phá. -Ban đêm: xác định bằng chạy đò máy (ví dụ: căn phút và tắt máy từ nơi xuất phát đến địa điểm xác định), địa hình cao thấp hoặc căn cứ vào các hàng đáy. Xác định bằng các luồng nước chảy, nếu nước chảy xiết thì sâu, nước chảy nhẹ thì cạn, hoặc các chổ có độ cua, cồn cạn, cồn sâu hoặc sóng lớn, sóng nhỏ. -Trong trường hợp mưa mù gió bão: Người dân xác định bằng các hướng gió, cấp độ gió, độ lên xuống của con nước, đặc biệt là bám vào các ngư cụ hai bên như đáy, chuôm, nò sáo -Nếu theo mùa: Mùa khô thì nước đầm thường cạn và ít đục hơn, mùa mưa nước đầm phá thường dâng cao và chảy xiết, khi đó sẽ có các khuỷnh nước quẩn và đó là địa điểm trú ngụ an toàn cho tàu bè trong trường hợp gặp bất trắc, nguy hiểm bởi bão tố, lũ lớn. Ngoài ra, các vật thể như cầu Trường Hà, nhà cửa, cây cối, đình chùa miếu mạo, đền thờ, các Doi, đồng ruộng, đường làng, cột điệnđều là nơi ngư dân xác định phương hướng và ranh giới. Thực trạng các ngư cụ đánh bắt trên mặt nước xã Vinh Phú Qua kết quả khảo sát bằng phương pháp bản đồ có sự tham gia tại địa bàn, và sử dụng MAPINFO, CSSH đã xây dựng nên được kết quả về các nghề khai thác hiện có tại địa phương như sau: - Nghề đáy: Các hàng đáy được kéo dài từ phía trong đất liền của xã Vinh Phú ra bên ngoài địa phận của các xã như Vinh An, Vinh Xuân. Chủ các hàng đáy không chỉ ở xã Vinh Phú mà còn có của các xã lân cận do được bán hoặc được kế thừa từ lâu đời. Hướng của đáy theo hưởng Đông – Tây và khoảng cách giữa các hàng đáy tương đối xa. Toàn đội 16 Vinh Phú có 05 hàng đáy với 93 trộ đáy, gồm: Thôn Triêm Ân: không có nghề nào cố định, chỉ có các ngư cụ đánh bắt di động như lưới rê, lưới dày, lừCác thôn khác vẫn thường tới đánh bắt tại thôn Triêm Ân. Hải sản ở đây bao gồm các loại như tôm, trìa, sò Các loại cá như cá trặc, cá nâu, cá hồng có khoảng 30 hộ thường đánh bắt ở đây. Thôn Hà Bắc: Có 2 hàng đáy của 8 hộ. Hàng thứ nhất Nằm từ khe phía trong bờ nước chảy ranh giới giữa hai thôn Triêm Ân và Trưng Hà khoản 12m. Phía trong bờ ra cách 15-20m, Độ dài của sáo khoảng 600m kéo dài sang thủy phận Vinh An, mặc dù nằm trên địa phận Vinh An nhưng vẫn của người trong thôn Hà Bắc vì do cha ông để lại từ xưa. Đáy gồm 33 miệng của 8 hộ sau đây: Nguyễn Chất 7 miệng (M); Trương Thị Nhẫn 4M, Nguyễn Thích 4M; Nguyễn Dư 4M; Nguyễn Thanh 4M; Nguyễn Hải 4M; Nguyễn Tơ 2M; Nguyễn Thuyên 4M. Hàng đáy thứ 2 nằm trên thôn Hà Bắc và Điền Trung cách bờ 15m kéo dài sang đến chợ Hà Bắc của Vinh An gồm 40 miệng. Hàng đáy này hoàn toàn của người dân Vinh An quản lý, do đó không nắm rõ số miệng, số hộ. Thôn Điền Trung: Có 01 hàng đáy xuyên qua cồn Chìm khoảng 16m, bao gồm 30 miệng đáy. Hàng đáy này của cả hai xã Vinh Phú và Vinh An. Thôn Nghĩa Lập: Từ đò ngang xuống có 01 hàng đáy gồm 16 M của 3 hộ là ông Hùng, Ông Nịnh Và ông Thanh. Cách bến đò có một hàng đáy 35 miệng của thôn Hà Úc/Vinh An Thôn Trừng Hà: Toàn bộ mặt nước không có đáy nào vì nước rất sâu, đây là vùng đánh bắt di động Thôn Mộc Trụ: có 02 hàng đáy, hàng thứ nhất cách bờ 150m, bao gồm hàng đáy của 3 hộ gồm Trần Tơ 6M, Huỳnh Bách 7m, Trần Léng 8M. Đáy nằm trên thôn Mộc Trụ nhưng do người ở Trưng Hà làm (do bán cho người ở thôn Trưng Hà), hàng đáy dài từ Mộc Trụ kéo đến giáp địa phận Vinh Thanh. Hàng thứ 2 cách cầu Trường Hà 100m, cách bờ 100m kéo dài qua hết đia phận Vinh Thanh gồm 30M: Trần Thành 4; Trần Minh 3, Phạm Đục 4. Đã di dời 9 miệng của Trần Thành 2, Đục 1, Bờ 4, Trần Mương 2 nhằm khai thông đường thủy đạo, phần giáp ranh giữa Vinh Phú và Vinh Thanh. Hàng đáy này tổng có 21 miệng, Vinh Thanh 10, Vinh Xuân 3, Vinh Phú 8. Thôn Trừng Hà: Có 03 hàng đáy. Hàng thứ nhất cách cầu Trường Hà 400m, gồm 25 miệng của người dân Vinh Xuân. Hàng thứ 2 nằm ở cồn đất Sét gồm 12 miệng ( Vinh phú có 6 miệng của ông Xiểng). Hàng thứ 3 nằm trên thủy phận Vinh Xuân. - Nò sáo Hình 1. Nò sáo Tại thời điểm điều tra, toàn xã Vinh Phú chỉ có 03 trộ sáo của 03 hộ nằm trên thủy phận của 02 thôn, cụ thể như sau: Thôn Trừng Hà: Sáo dài 150m, cánh sáo 100m của Trần Giỏ, vị trí sáo nằm cách bờ (phần đất liền khu dân cư) trên 100m, hướng sáo song song với bờ và miệng sáo rộng 80m. Thôn Hà Bắc :có 02 trộ sáo nằm song song với nhau, miệng sáo hướng về phía Cồn Chìm và cách cột cấm Cồn Chìm 5m.Khoảng cách giữa hai sáo (phần miệng sáo) dưới 15m Trộ sáo 1: Của gia đình ông Trần Phơ. Sáo1 dài 150m, miệng rộng 100m, khoảng cách sáo theo người dân thì rất gần bờ. Nếu tính từ điểm lồi ra của bờ phá thì khoảng cách chỉ 40m, điều này vi phạm khoảng cách sắp xếp sáo theo quy định mới của. Tỉnh. Trên thức tế, 02 trộ sáo này đã được chính quyền xã Vinh Phú thực hiện tháo gỡ 01 lần, tuy nhiên sau đó không bố trí cho 2 hộ này vị trí mới hợp lý để đặt sáo, nên sau một thời gian, hai hộ trên lại tiếp tục đóng sáo xuống vị trí củ. Trộ sáo 2: Của gia đình anh Nguyễn Ngọc An, sáo nằm ở vị trí bên ngoài, chiều dài của sáo 150m, cánh sáo 100m, miệng sáo rộng 100m hướng về phía Cồn Chìm. Trong lần lấy ý kiến sắp xếp lại lần này, CSSH tiến hành lấy ý kiến tổng thể của tất cả các thành phần trong dân, đặc biệt là các hộ nằm trong diện có các ngư cụ cố định phải sắp xếp, giải tỏa, trên cơ sở đó nắm bắt những nguyện vọng thiết thực nhất liên quan đến sinh kế lâu dài của người dân. Và đồng thời có những kết luận mang tính khách quan cho các cơ quan chức năng làm căn cứ để tiến hành quy hoạch. -Rớ giàn: Rớ giàn là một loại ngư cụ đánh bắt khá đơn giản, tuy nhiên để làm được một trộ rớ giàn không hề đơn giản mà phải đòi hỏi tính công phu và thời gian dài. Do đặc tính riêng của ngư cụ, cho nên trong quá trình đánh bắt và sử dụng thường dễ bị hư hỏng, nhất là trong mùa mưa lũ, nếu không kịp thời kéo lên trên mặt nước thì dễ bị cuốn trôi khi nước chảy mạnh. Cũng vì vậy mà rớ giàn thường được đặt vào các chổ nước quẩn. Toàn thủy diện xã Vinh Phú có 16 trộ rớ giàn, trong đó tập trung tại các thôn như sau: Thôn Mộc Trụ: có 11 hộ bao gồm của các hộ sau: Bà Hoa 1; Ông Nguyên 2; ông Lãng 2; anh Tất 2; ông Xiểng 2; anh Minh 1; ông Cáng 1. Thôn Trưng Hà: Có 04 trộ: Bao gồm ông Nguyễn Bách 2; ôngTrần Chinh 1; ông Trần Giỏ 1. Thôn Nghĩa Lập: Có 01 trộ của hộ Nguyễn Xí, -Chuôm: Chuôm là một loại hình tạo ra môi trường sống nhân tạo cho tôm cá. Vật liệu được người dân sử dụng chủ yếu là tre và các loại cây nhiều nhánh. Nơi đặt chuôm thích hợp nhất là các vùng đầm phá có độ sâu từ 1,5 đến 2m. Hình 2. Chuôm Đây là một nghề được khuyến khích vì không ảnh hưởng đến môi trường nước lại vừa giúp tái tạo nguồn lợi thủy sản một cách tự nhiên. Mặt nước xã Vinh Phú có nhiều đặc điểm khác biệt so với các xã khác trong huyện như độ nông cạn, độ mặn, dòng nước, cho nên việc phân bố và sắp xếp các trộ chuôm ở đây mang nhiều đặc trưng riêng riêng cũng như số lượng. Tổng số lượng chuôm trên mặt nước xã Vinh Phú có 51 trộ, được phân bố cụ thể tịa các thôn như sau: Thôn Mộc Trụ: Tại đây có 62 trộ chuôm, bao gồm: Ông Nghiêng 01 trộ, Ông Lãng 03 trộ, ông Xiểng 01trộ, Ông Thành 01trộ, Ông Minh 01trộ, bà Hoa 01trộ, Trần Thành 01trộ, Trần Lương 01trộ, ông Bách 01 trộ. Ngoài ra, có thêm 01 trộ của xã Vinh Xuân nằm trên địa bàn thôn. Thôn Trừng Hà: Có 05 trộ bao gồm: Trần Giỏ 01trộ, Trần Đấm 01, Phạm Chinh 01, Mai Tùng 01 và Ông Bách 01trộ. Thôn Triêm Ân: Do đặc điểm địa hình không thích hợp với loại ngư cụ cố định này, cho nên thôn Triêm Ân không có trộ chuôm nào. Thôn Hà Bắc: Có 19 trộ chuôm bao gồm: Ông Minh và Ông Dường 01 trộ, Nguyễn Tơ 01 trộ, Nguyễn Nài 01 trộ, HNC 01 trộ, Nguyễn Chất 04 trộ, Nguyễn Hải 01 trộ, Nguyễn Nẫm 04 trộ, ông An 02 trộ và Ông Khánh 02 trộ. Thôn Điền Trung: Có 06 trộ chuôm, bao gồm các hộ sau: Ông Khánh (Hút) 01 trộ, Lê Trung 02 trộ và Nguyễn Mưu 02 trộ. Thôn Nghĩa Lập: Có 09 hộ làm chuôm bao gồm 20 trộ như sau: Huỳnh Đầu 04 trộ, ông Mưu 03 trộ, Lê Trung 04 trộ, ông Khánh 02 trộ, ông Quang 01, ông Ái 02 trộ, Ông Hải 01 trộ, ông Xí 01 trộ và ông Trai 02 trộ. - Nuôi cá lồng Nuôi cá lồng là mô hình được các hộ dân ven Phá Tam Giang nói chung mà xã Vinh Phú nói riêng áp dụng khá phổ biến. Thời gian gần đây, nuôi cá lồng đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế rất cao và đang có xu hướng gia tăng về số lượng lồng và các hộ nuôi. Tổng số lượng lồng cá hiện có trên mặt nước đầm phá của xã Vinh Phú là 54 lồng, được phân bố trong các thôn dưới đây: Thôn Nghĩa Lập: Có 23 lồng của 8 hộ nuôi bao gồm của các hộ sau: Ông Quang 3; ông Huỳnh Ái 2; anh Được 2; Huỳnh Đầu 4; Huỳnh Nịnh 1; Khánh (Hút) 4; ông Miêu 3; Lê Trung 4. Thôn Hà Bắc: Có 12 lồng, bao gồm: ông Chất 2; ông Minh 1; Nguyễn Tơ 1; Nguyễn Lành 1; Lê Tận 1; Nguyễn Nài 1; Nguyễn Tơ 1; Nguyễn An 1; Nguyễn Nẫm 1; Nguyễn Hải 1; Nguyễn Ngọc Khánh 1. Thôn Trưng Hà: Có 17 lồng, bao gồm: ông Chinh 2, ông Đấm 1, ông Giỏ 3, ông Lén 2, anh Cu 2, anh Dễ 2, ông Vui 4, ông Bách 1. Thôn Mộc Trụ: Có 2 lồng của Trần Lương -Nghề Lừ Lừ là một trong những ngư cụ phổ biến của các hộ dân tham gia đánh bắt bắt di động trên đầm phá. Lừ được tả xuống đầm vào khoảng thời gian ban đêm từ 22h đến 3h sáng là kéo lên. Các loài thủy sản bao thu được bao gồm cá, cua, rạm, nhiều nhất vẫn là tôm. Thời gian gần đây, kích cỡ mắt lưới lừ đang là vấn đề bất cập do nhập về từ Trung Quốc, khai thác cả các loài nhỏ, vi phạm quy dịnh về mắt lưới lừ của Chi hội nghề cá tỉnh quy định. Hình 3. Lừ Ở Vinh Phú, số lượng người tham gia đánh bằng lừ không nhiều và đang ngày càng có xu hướng giảm. -Nuôi Rong câu Toàn xã Vinh Phú hiện tại có 02ha thả rong câu nằm tại thôn Hà Bắc. Khu vực này được quy hoạch nhằm bảo vệ nguồn lợi tài nguyên và môi trường, được Chi HNC xã Vinh Phú quản lý và khai thác để gây quỹ. Trong thời gian tới sẽ phát triển thêm 06ha. Về nguyên tắc, vùng này vẫn cho phép đánh bắt lưới thấp, chuôm và lừ. -Về xác định thủy đạo Giao thông thủy trên thủy phận xã Vinh Phú đang có nhiều bất cập, đặc biệt là các tuyến giao thông huyết mạch, các luồng giao thông chính. Sở dĩ còn xảy ra những vấn đề trên là do nò sáo của các hộ dân đang cắm ở trên đầm, trong đó có các hàng sáo của các hộ dân xã lân cận lấn sang thủy phận xã Vinh Phú. Ngoài ra, các ngư cụ cố định như đáy, chuôm được cắm ở các vị trí không đúng quy định cũng có ảnh hưởng đến giao thông thủy trên mặt nước xã. Để định hướng và xác định các tuyến giao thông đi lại, trong đó có các tuyến giao thông quan trọng, huyết mạch, người dân căn cứ vào các cột mốc đã được cắm trên đó.Các cột mốc được cắm cố định và có ký hiệu rõ ràng cho từng đoạn trên từng khúc trên phá, cho từng loại phương tiện tham gia giao thông thủy. Những trường hợp không xác định các cột mốc do trời mưa gió, giông bão, người dân sẽ căn cứ vào các ngư cụ trên hoặc các vật thể khác. Theo nguyện vọng của người dân, trước mắt cần giải tỏa các hàng đáy từ Phía bến đò Hà Úc kéo sang thủy phận xã Vinh Phú, về lâu dài, cần tuân thủ các quy định về sắp xếp ngư cụ để đảm bảo giao thông thủy cho toàn thể người dân khi tham gia đánh bắt và đi lại trên sông đầm. 5. Lịch sử hình thành các khu đông dân cư và nguyên nhân Lịch sử hình thành các khu dân cư ven vùng đầm phá Tam Gang là một quá trình phức tạp và hội tụ nhiều yếu tố. Trải qua rất nhiều biến động, dưới những tác động chuyển dời của bàn tay tạo hóa đã hội tụ những cư dân từ các vùng khác nhau lại thành những nhóm cộng đồng nhỏ. Họ cùng có chung nguồn lợi, chung nghề và hòa mình trong các sinh hoạt để hình thành các phong tục tập quán riêng mang màu sắc sông nước. Trong giới hạn của vấn đề, chúng tôi không đi sâu nghiên cứu tìm hiểu lịch sử hình thành cũng như các quá trình định cư biến đổi như như thế nào, mà chỉ khảo sát thông tin và đề cập một khía cạnh nhỏ để tìm hiểu tại sao dân cư tập trung đông đúc ở một số khu vực quanh đầm phá tại Vinh Phú. Cũng giống như cư dân phá Tam Giang nói chung, hiện nay, cư dân ở vùng này là sự hòa trộn mạnh mẽ từ nhiều vùng miền khác nhau. Tuy nhiên, khi đến đây, con người đều biết cách để thích nghi dần với hoàn cảnh hiện tại, hình thành nên một lớp cư dân trên nền tảng của những giá trị đã được tạo dựng trong truyền thống, quy hợp lại một cộng đồng lâu đời và đã sinh sống ở đây qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, tình trạng cư trú vẫn bất ổn định và tái du cư của cư dân thủy diện vẫn tiếp tục diễn ra do các biến động của thiên nhiên. Họ đến khai phá vùng này từ rất sớm, vào khoảng thế kỷthứ XIV khi trong buổi đầu đây chỉ là một vùng biên viễn xa xôi. Về sau, quá trình tụ cư, sinh cư lập nghiệp tiếp tục diễn ra qua những thời kỳ lịch sử khác nhau và đến từ các vùng miền xa xôi và lân cận. Họ bao gồm nhiều thành phần khác nhau, là những người khốn khó, tội đồ, nông dân mất ruộng, những người di tán hoặc từ các đoàn thủy binh, một số dân chài của các vạn, nhưng phổ biến vẫn là những cư dân gốc nông nghiệp di cư đến. Vùng này cũng là nơi đầu tiên tiếp nhận những cư dân thiên di theo đường biển, đánh dấu quá trình tụ cư khai phá mặt nước của cư dân lâu dài và thăng trầm. Đến thế kỷ XV, khu vực đầm phá là những xóm làng đông vui và bắt đầu được khai thác mạnh. Sự hỗn dung, đa phương, đa tuyến về mặt con người, trong đó in dấu một cách đậm nét là thành tố Việt, đã tạo nên một diện mạo dân cư đặc sắc trên vùng đất chuyển tiếp giữa đồng bằng và biển cả. Có nhiều yếu tố khiến cư dân tập trung đông đúc ở một số nơi, trong đó phải kể đến yếu tố địa lý và nguồn lợi tài nguyên đầm phá đóng vai trò chủ đạo. Hẵn những ai đã từng tiếp xúc với ngư dân đầm phá đều nghe họ nói đến câu “làm nghề theo đuôi con cá”. Câu ấy hàm ý rằng, con cá đi đâu thì buộc người dân phải theo và ở đâu có cá thì người dân tự tìm đến để cư trú và khai thác. Qua khảo sát và sử dụng công cụ vẽ bản đồ có sự tham gia cho thấy, các khu vực tập trung đông đúc dân cư ven đầm phá của xã Vinh Phú bao gồm các thôn Điền Trung và Hà Bắc. Tại đây có nhiều thuận lợi, trước hết do có vịnh sâu, nước quẩn nên tập trung nhiều loài thủy sản. Bên cạnh đó, các khu vực này lại gần các khu dân cư nên th
Tài liệu liên quan