Tóm tắt
Từ xưa đến nay, các nghiên cứu đã công bố đều tiếp cận tang ma theo trình tự các nghi thức của
tang lễ: Quan niệm hồn vía /thể xác, sống/chết; thông báo có người chết; mời thày cúng (mo, tào,.);
khâm liệm người quá cố; cúng dẫn đường,.; đưa ma; mai táng, đắp mộ, dựng nhà mồ,. Tiếp cận
theo cách này không chú ý đến mục đích, chức năng của việc làm ma; ít đề cập tới tín ngưỡng liên
quan và các nghi thức liên quan. Hiện nay, có một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu tang ma
các tộc người là tiếp cận từ mục đích, nguyên tắc. của việc làm ma: Thông qua các nghi thức cúng
tế, làm phép, bùa yểm,. người sống làm các thủ tục (bắt buộc), tạo điều kiện cho ma người chết
chuyển sang thế giới ma và sau đó đầu thai làm kiếp người mới. Trên cơ sở mục đích bao trùm này,
thông qua các nghi thức, ma chay phải thực hiện các mục tiêu cụ thể: Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện
để ma đầu thai làm kiếp người mới; bảo vệ vía con cháu, những người tham gia đám ma, tránh chết
trùng,.; ma mới cảm ơn vì được người sống đã làm ma cho họ.
8 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu tang ma các tộc người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Số 23 - Tháng 3 - 2018
VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
MỘT HƯỚNG TIẾP CẬN MỚI
TRONG NGHIÊN CỨU TANG MA CÁC TỘC NGƯỜI
TRẦN BÌNH
Tóm tắt
Từ xưa đến nay, các nghiên cứu đã công bố đều tiếp cận tang ma theo trình tự các nghi thức của
tang lễ: Quan niệm hồn vía /thể xác, sống/chết; thông báo có người chết; mời thày cúng (mo, tào,...);
khâm liệm người quá cố; cúng dẫn đường,...; đưa ma; mai táng, đắp mộ, dựng nhà mồ,... Tiếp cận
theo cách này không chú ý đến mục đích, chức năng của việc làm ma; ít đề cập tới tín ngưỡng liên
quan và các nghi thức liên quan. Hiện nay, có một hướng tiếp cận mới trong nghiên cứu tang ma
các tộc người là tiếp cận từ mục đích, nguyên tắc... của việc làm ma: Thông qua các nghi thức cúng
tế, làm phép, bùa yểm,... người sống làm các thủ tục (bắt buộc), tạo điều kiện cho ma người chết
chuyển sang thế giới ma và sau đó đầu thai làm kiếp người mới. Trên cơ sở mục đích bao trùm này,
thông qua các nghi thức, ma chay phải thực hiện các mục tiêu cụ thể: Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện
để ma đầu thai làm kiếp người mới; bảo vệ vía con cháu, những người tham gia đám ma, tránh chết
trùng,...; ma mới cảm ơn vì được người sống đã làm ma cho họ.
Từ khóa: Tang ma, mo tang, nhà mồ, chết trùng, người quá cố, tộc người thiểu số...
Abstract
So far, the published researches have approached funerals according to the funeral rituals:
conception of the soul/body and life/death; death announcements; inviting shaman (mo, tao, ...);
enshrouding and encoffining the death; worshipping to “pave the way” to the cemetery, taking the
death to the cemetery, burying the death, tomb building, etc., However, little attention has been paid
to the purposes and functions of funerals and the related belief and rituals if approaching this way.
At present, there is a new approach in studying of the funeral is the approach from the purposes,
principles ... of funerals: Through such rituals as worshipping, blessing, enchanting and others as
condition for the death to move to another world and then reincarnate into a new life. On that basis,
rituals in funeral must be carried out for concrete objectives: to make it sufficent for the death to
reincarnate; to protect spirit of the relatives and people participarting the funeral, to avoid possible
coincident death, and to make it possible for the death to thank those who organize the funeral.
Keywords: Funerals, tombs, dead house, coincident dead, deceased people/death, ethnic
minorities...
1. Tiếp cận truyền thống
Phần lớn các nghiên cứu đã công bố đều tiếp cận ma chay của các tộc người thiểu số theo trình tự các nghi
thức của tang lễ: Quan niệm hồn vía/thể xác,
sống/chết; thông báo có người chết; mời thày
cúng (mo, tào,...); khâm liệm người quá cố;
cúng dẫn đường,...; đưa ma; mai táng, đắp mộ,
dựng nhà mồ...; đưa cơm, mời về làm ma tổ
tiên (ma nhà);...
Mục đích làm ma, theo Mạnh Tử: Dưỡng
sinh tang tử vô hám vương đạo chi thủy giả (Đạo
trị thiên hạ cần nhất là khiến dân nuôi dưỡng
người sống và tang ma cho người chết, không
có điều gì hối hận). Theo X.A. Tocarev: Ma chay
Số 23 - Tháng 3 - 20186
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
là khái niệm dùng để biểu thị toàn bộ các nghi lễ
tôn giáo liên quan đến người chết và tín ngưỡng
gắn liền với nó (27).
Thực tế kết quả nghiên cứu tang ma ở các
tộc người cho thấy hầu như các nghiên cứu
đều đề cập đến quan niệm: con người có thể
xác/hồn vía. Đây là hai thực thể độc lập, nhưng
lại không thể tách rời nhau, tồn tại thống nhất
trong một con người cụ thể: đó là sự sống. Khi
chúng lìa nhau, không thống nhất, con người sẽ
chết. Đó là nguyên nhân của sự chết. Trong một
số nghiên cứu, cái chết được lý giải:
- Người chết đi là sang thế giới của ma. Họ
vẫn có mọi nhu cầu như người đang sống, nên
trước khi chôn cất phải cử hành nhiều nghi lễ
phức tạp (26, tr. 213).
- Ở người Tày, “hệt phi” là tiễn đưa linh hồn
người quá cố sang thế giới bên kia và chuẩn bị
cho họ mọi thứ cần thiết cho cuộc sống và sinh
hoạt hàng ngày. Làm ma là rửa tội mà lúc sinh
thời người quá cố phạm phải, giúp họ sống an
nhàn, no đủ, sung túc,... ở thế giới ma. Vì thế,
ma chay thường tổ chức linh đình, kéo dài nhiều
ngày (28, tr. 286).
- Người Dao quan niệm, người chết là vĩnh
biệt những người thân thích, lìa khỏi trần gian
sang với tổ tiên ở thế giới khác, cũng không
khác gì ở thế giới trần gian. Vì thế, phải làm ma
(10, tr.240).
- Trên cơ sở quan niệm về sự tồn tại của linh
hồn và thể xác, tang ma của người Dao Tiền ở
Ba Bể (Bắc Cạn) phải được tiến hành hai nghi lễ:
Chôn cất xác chết (piuốp ca nai tải) và đưa người
chết về với tổ tiên (piuốp miến) (24, tr. 250).
- Theo người Si La, vũ trụ có 3 tầng. Người
chết đi, hồn vía (lá tù) không ở tầng nào trong số
đó và không đề cập tới tại sao phải làm ma, mục
đích của việc làm ma (5, tr. 195).
- Người Mảng tin rằng người chết đi hồn/vía
sẽ tồn tại và sinh sống ở Mường Trời và được thần
thánh chăm sóc, nên khi chết đi phải làm ma (chi
plị). Người chết đi bắt buộc phải là người đã xăm
miệng. Vì thế ai chết mà chưa xăm miệng, phải
dùng than củi vẽ quanh miệng, vờ làm hình xăm
(20, tr. 107).
- Các dân tộc nhóm Hà Nhì – Lô Lô tin rằng
người chết sau khi chôn cất sẽ sống lại dưới
nhiều hình thức khác nhau, phổ biến là biến
thành các con vật (gia súc hay muông thú) gây
họa cho người. Vì thế, người ta phải tìm mọi cách
tránh sự tái sinh này (15, tr. 188).
- Theo quan niệm của người Ba Na, người
chết đi linh hồn sẽ biến thành ma (cháh), sống
với ma tổ tiên. Chưa làm ma, hồn người chết vẫn
ở bên xác, nên phải làm ma (8, tr. 201-202).
- Người Mường quan niệm chết là kết thúc
một đời người, là sự vĩnh viễn ra đi không
bao giờ gặp lại, là đem lại sự mất thăng bằng
tới một nhóm gia đình do sự mất đi của một
thành viên... Khi còn sống với nhau, đạo lý làm
người của người Mường đã chỉ ra rằng nên
đối xử tốt đẹp với nhau, thì khi chết đi đạo lý
ấy cũng khuyên người sống phải chăm lo tận
tình, nghĩa tử là nghĩa tận. Đó là trách nhiệm,
bổn phận, đồng thời cũng thể hiện mối quan hệ
giữa con người với con người thông qua tang lễ
(20, tr.107).
- Đối với người Tày Mường, cái chết là sự khép
lại một chu kỳ sống của con người, và chuyển
sang sống ở một thế giới khác sung sướng hơn.
Để linh hồn về được với thế giới tốt đẹp đó, cần
phải có sự tiễn đưa và dẫn đường (làm ma) (9,
tr. 212-213).
- Chịu ảnh hưởng Phật giáo, người Khmer
Nam Bộ quan niệm chết chưa phải là chấm dứt
cuộc sống mà tiếp tục sống ở một thế giới khác
bằng linh hồn bất diệt. Vì thế họ làm ma cho
người chết với nhiều lễ tiết phức tạp (4, tr. 96-97).
- Với người Gia Rai, Ba Na: Chết là sự tái sinh
sang thế giới khác, sống ở một dạng khác. Ở thế
giới bên kia, ngày là đêm, đêm là ngày, đẹp là
xấu, cùn là sắc, ngược là thuận,... Người chết vẫn
là người nhưng chỉ như cái bóng không có thân
xác, vật chất như người sống, sống cuộc sống như
người sống, nhưng ở dạng ma... (7, tr. 111-112).
Sau khi lý giải việc vì sao phải làm ma cho
người chết, các nghiên cứu mang tính chuyên
đề đều mô tả đám ma theo trình tự các nghi
thức. Trình tự đó thường như sau: Thông báo
có người chết; mời thày cúng (mo, tào,...); khâm
liệm người quá cố; làm quan tài; chọn đất, đào
huyệt; cúng dẫn đường,...; đưa ma; mai táng,
đắp mộ, dựng nhà mồ,...; đưa cơm, mời về làm
ma tổ tiên; bỏ mả,...
7Số 23 - Tháng 3 - 2018
VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Một số nghiên cứu về tang ma của người
Hmông, người Tày, người Nùng,... cơ bản cũng
đều tiếp cận theo theo trình tự đó, bởi các tộc
người này có những đặc thù riêng về tang ma,
nên các nghiên cứu có thể thêm, hoặc bớt một
số nghi thức.
Trình tự tiếp cận như sau:
* Trình tự các nghi thức tang ma của người Hmông:
Mời thày cúng (Triz muav); đi mời trống; đi
mời thầy khèn và kèn; đi mời tổng quản (trung
ca); đi mời người nấu cơm; đi mời chủ trì đám
(Zhua Zha); đi mời bên họ ngoại; cúng tế dẫn
hồn người chết đi về với tổ tiên; nghi thức thổi
khèn, treo trống; đưa quan tài vào nhà; khâm
liệm; cho người chết ăn; đón khách đến phúng
viếng; cúng tế đuổi ma Hán (Trươs tros); cúng
tế vật hiến sinh; cúng đưa áo quan ra bãi rộng
ngoài nhà (zhưv ztrax); cúng thu vía người
sống (lăn trứng); cúng gói cơm trưa cho người
chết; cúng tiễn biệt hồn người chết; cúng gọi
và thu vía người tham gia đưa ma; hạ huyệt,
mai táng, đắp mộ (18).
* Trình tự các nghi thức trong đám ma người Tày:
Đón thầy tào; khâm liệm (lồng phượn, lâm
khốc); rửa mặt (dào nả); nhập quan (khẩu mạy);
cúng cơm (pjầu ngài); phát tang (phát háo);
cúng tế mở đường (khay tàng); cúng tế ba
ngày (tam tian); cúng phá ngục (xiên đàn phả
ngục); cúng xem phần mộ (tỵ huyệt); cúng tổ
tiên (khao chỏ); tế ngựa bên ngoại; tế cây tiền
(co xuông)/các con gái cúng bố/mẹ; tế mai hoa
chi, thạch sơn/cháu gái, con nuôi cúng; tế đại
trường (đại đăng đại tế); cúng tế hồi đăng; tế
dọn đường cho ma đi (cải câu); cúng tế dẫn
ma về cõi trời (mừa phạ); cúng tế xuất tang (Óc
phi); cúng giao nhà táng (rườn bao); cúng hạ
huyệt; tạ ơn bản làng,... (14).
* Trình tự nghi thức trong đám ma nhóm Dao
Quần Chẹt:
Cúng rửa mặt, mặc quần áo mới; báo tang
(đống pà xóa mìn sinh say), mời thầy cúng; làm
quan tài (quyền dòi); cúng nhập quan (tắp pịa
quya nòi); cúng dẫn đường cho ma mới (chẩu
chê com); cúng chia tài sản cho người chết
(pưm nền miền); đưa ma (pưm ken tậy); mai táng
(phủng mình thảu chinh); lập bàn thờ; cúng cơm
cho ma mới (sểng duấn đăm chúa hắng); cúng
cấp đất cho ma mới (pua chảng sâu); làm chay
(chảu chê lẳm); cúng treo tranh, lập đàn cúng;
cúng phát tang, lập ban thờ, cúng cơm; Khoi tàn
(do thầy khoi tàn cúng); cúng rửa tội, minh oan
(poong sim sẹ đút); chia tài sản cho người chết
(pưm nền miền); cúng đưa người chết lên thiên
đàng (phào tằm tồng); cúng báo tổ tiên,... (11).
* Trình tự nghi thức tang lễ của người Xinh
Mun (Puộc Dạ):
Bắn súng (con gò giắc ống pềnh); khâm liệm
cho người chết (sắt xống, tà bắc gàng); nhuộm
răng đen/nếu là đàn ông (xào tắp); phá ban
thờ ma nhà (xướch xưl giềng); phát tang (khát
lóp luốc); đi báo tang (du thằn); cúng trâu, lợn
cho người chết (chình cà choòng); đưa ma (giắc
dù ùng), mai táng; dựng nhà mồ (giềng hà
miền); thu vía của những người đi đưa ma về
nhà,... (22, tr. 47-48).
* Trình tự nghi thức đám tang người Chăm Bani):
Tắm rửa cho người chết; thày Char tế làm
phép cho người chết uống nước; đưa tử thi ra
ngoài sân, tắm lại ở buồng tắm mới; mặc quần
áo mới cho người chết; đặt xác lên giàn, bó vải;
đưa xác lên đòn, khiêng đi mai táng; các thầy
cầu kinh dẫn hồn ra nghĩa địa (4 thầy ngồi trên
đòn khiêng); mai táng (tay phải gối vào gáy,
tay trái đặt úp sát miệng; không có quan tài);
cúng tế rửa tội,... (2, tr.235-237).
Đối với các luận văn, luận án, sau khi mô
tả các nghi thức của đám tang theo một trình
tự, các tác giả thường dành một chương bàn
về những biến đổi của tập quán tang ma và
nêu các giải pháp công tác, liên quan đến
tang ma. Rất ít có các lý giải, phân tích về cơ
sở xuất hiện, tồn tại của các nghi thức, hành
vi được thực hiện trong đám tang. Kể cả các
hành vi cúng tế của thầy mo, thầy tào và của
con cháu thực hiện khi chịu tang ông bà, bố
mẹ,... Nói cách khác, các tác giả ít quan tâm
đến nguồn gốc, mục đích của các nghi thức và
hành vi được thực hiện trong đám tang. Mục
đích của việc làm ma chỉ được giải thích chung
chung, thường không được lý giải trên một cơ
sở tín ngưỡng, hoặc khẳng định nguồn gốc tín
ngưỡng rõ ràng,... trong nhiều nghiên cứu.
Với tiếp cận như trên, sẽ rất khó khăn cho
việc tìm hiểu: Tại sao phải làm ma cho người
Số 23 - Tháng 3 - 20188
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
chết; tín ngưỡng liên quan đến làm ma cho
người chết của các tộc người là gì, khác nhau
như thế nào; trong ma chay có các nguyên tắc
bất di, bất dịch nào bắt buộc phải tuân thủ hay
không; bản sắc tộc người thể hiện trong tang
ma như thế nào. Vì thế chúng tôi thử nghiệm
cách tiếp cận sau đây.
2. Một hướng tiếp cận thử nghiệm
Đây là cách tiếp cận từ mục đích, nguyên
tắc của việc làm ma. Theo chúng tôi, ngoài các
yếu tố tâm lý, tình cảm, nghĩa tình,... của con
cháu, người sống đối với người chết, mục đích
chính của việc làm ma là: Thông qua các nghi
thức cúng tế, làm phép, bùa yểm,... người sống
làm các thủ tục (bắt buộc), tạo điều kiện cho
ma người chết chuyển sang thế giới ma và đích
là đầu thai làm kiếp người mới. Trên cơ sở mục
đích bao trùm này, thông qua các nghi thức,
ma chay phải thực hiện các mục tiêu:
(1). Hỗ trợ bằng được ma mới đầu thai làm
kiếp người mới (Bảo vệ ma mới, không cho quỷ
bắt, dẫn ma mới trình báo tổ tiên, trả nợ chuộc
tội, trình báo các cửa thánh thần, hướng dẫn
cách đầu thai).
(2). Bảo vệ vía con cháu, người sống, người
tham gia đám ma, tránh chết trùng,...
(3). Ma người chết phải được cảm ơn người
sống đã làm ma, tạo điều kiện cho họ có đủ điều
kiện cần thiết để đầu thai làm kiếp người mới.
Có thể tạm minh họa việc thực hiện các
mục tiêu, thông qua các nghi thức trong việc
làm ma của một số tộc người.
2.1. Hỗ trợ bằng được để ma mới đầu thai
kiếp người mới
* Bảo vệ ma mới không cho quỷ bắt
Các tộc người đều cho rằng, con người khi
sống trên trần thế, không thể không vô tình
hay hữu ý phạm phải tội lỗi, nên khi vừa chết
thì quỉ tới bắt ngay (nhất là các tộc người chịu
ảnh hưởng Đạo giáo). Để cho ma mới được đầu
thai kiếp người mới, trước tiên, các tộc người
đều thực hiện các nghi thức bảo vệ bằng được
ma mới, không cho quỷ bắt.
- Người Hmông ở Kỳ Sơn (Nghệ An) bắn
súng và thổi tù và ngay sau khi nguời chết tắt
thở (17, tr. 153).
- Người Hmông Đen ở Sa Pa bắn súng khi
người chết vừa tắt thở. Nếu người chết già thì
bắn 9 phát, người chết còn trẻ bắn 3 phát (12).
- Từ cổ xưa, khi người thân tắt thở, trước tiên
con trai người Hmông ở Phan Thanh bắn ba
phát súng kíp để đuổi quỷ dữ, bảo vệ ma vừa
chết. Tiếng súng đó đã ăn sâu vào tâm thức
người Hmông, nên đó cũng là tín hiệu thông báo
đến cả cộng đồng (19, tr. 39).
Rất nhiều tộc người, trong đó điển hình
là người Hmông, Dao, Sán Dìu, Nùng,... thực
hiện nghi thức tế đuổi quỷ (tua ke mùa) ngay
khi thày cúng tới. Với người Hmông ở Phan
Thanh (Bảo Lạc, Cao Bằng), nghi thức tế đuổi
quỷ được thực hiện hàng ngày trong thời gian
quàn linh cữu ở trong nhà. Mỗi ngày tế 3 lần:
sáng, chiều, đêm. Khi tế, con cháu cầm gậy gộc,
dao,... chạy 7 hoặc 9 vòng quanh nhà; thầy tào
và 2 thợ khèn hành lễ, con cháu, anh em chạy
đàn (19, tr. 39).
Có thể dẫn ra được nhiều đề cập tới việc bắn
súng báo hiệu khi có người chết. Nhưng các
đề cập ấy đều cho rằng bắn súng chỉ để loan
tin có người chết. Thực ra đó chỉ là hệ quả thứ
yếu, đích chính của nghi thức này là đuổi quỷ
bảo vệ ma mới chết, khi thầy cúng chưa tới. Có
nhiều trường hợp, nhiều tộc người không bắn
súng mà thổi tù và, đập phá gây tiếng động
mạnh trong nhà, kể cả đập mạnh vào ban thờ,
vào bếp cũng là để đuối quỷ, bảo vệ ma mới.
Thực tế, ngoài việc bắn súng đuổi quỷ bảo vệ
ma mới, dùng tiếng động mạnh, tiếng nổ,... để
đuổi ma quỷ là tín ngưỡng của rất nhiều cộng
đồng ở Trung Hoa, Đông Á và Đông Nam Á: Tục
gõ nồi, nong nia, thúng mủng,... khi có nhật
thực; tục đốt pháo khi làm lễ trừ tịch (cúng Giao
thừa); khi đón dâu vào nhà chồng; khi đưa ma
ra khỏi nhà và trên đường đưa ma,... (Choang ở
Trung Hoa) (23, tr. 53).
Bảo vệ ma mới chết, cũng được thực hiện
thông qua nghi thức, cho tiền chinh vào mồm
người vừa chết. Khi chưa có thầy cúng bảo vệ,
con cháu phải cho người chết ngậm tiền. Nếu
quỷ đến bắt, tra khảo, người chết mở miệng ra
nói, quỷ nhìn thấy kim loại trong miệng người
chết, sẽ bỏ chạy (24, tr. 221). Nhiều nghiên cứu
khi đề cập tới nghi thức này chỉ giải thích là để
người chết có tiền đi đường.
9Số 23 - Tháng 3 - 2018
VĂN HÓA DÂN TỘC THIỂU SỐ
NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA
Nhiều tộc người, ngoài việc cho tiền chinh
vào miệng còn giắt liềm, hái, dao vào thắt lưng
người vừa chết. Cũng nhiều tộc người có nghi
thức: con trưởng đeo dao hoặc vác dao đứng
túc trực bên linh cữu bố mẹ khi họ vừa qua đời.
Một số tộc người còn thực hiện nghi thức treo
dao ngay trên phía đầu người vừa chết.
- Theo tập quán của các nhóm Hmông, ngoài
các nghi thức bảo vệ ma mới, họ còn thực hiện
nghi thức tế đuổi quỷ, ma Hán, bảo vệ ma mới
(12, tr. 157).
- Một thày cúng cho biết: Vào tế, thầy tào
khấn báo ma mới: anh em chúng tôi đang chuẩn
bị đi đuổi quỷ, đuổi tà, ông (bà) hãy đi theo chúng
tôi. Đi sau thầy tào là hai người thổi khèn (tào
khèn) có nhiệm vụ thổi bài khèn đuổi ma; con
cháu và anh em cầm vũ khí làm động tác đuổi tà,
đuổi quỷ. Tế đuổi quỷ được thực hiện trong suốt
quá trình làm ma cho đến khi đắp xong mộ cho
người quá cố1.
Đuổi quỷ, bảo vệ ma mới còn được thầy
cúng thực hiện trong các nghi thức nhập quan,
hạ huyệt. Trong các nghi thức đó, thầy cúng
dùng cành lá tươi có gai xua đuổi trong áo
quan, dưới huyệt trước khi cho linh cữu nhập
quan và trước khi hạ quan tài xuống huyệt (21,
tr. 78). Bảo vệ hồn vía của ma mới còn được
thực hiện trong nghi thức: Dùng sợi vải tết lại
buộc hai ngón chân cái và hai ngòn tay cái của
người vừa chết.
Một số tộc người hiện vẫn thực hiện nghi
thức bó người chết bằng võng gai. Khi mai
táng xong xuôi lấy võng gai vắt trên vách nhà
mồ (người Thổ). Khi người quá cố vừa tắt thở,
sau khi làm thủ tục rửa mặt, thay quần áo thì
cho người chết vào quan tài (cũi/trong) hình
mắt cáo, làm bằng tre. Các nghi thức đó nhằm
bảo vệ ma mới, ngăn không cho quỉ đến bắt.
Khi thầy cúng tới sẽ thực hiện nghi thức giam
ma mới vào ngục để bảo vệ không cho quỷ bắt.
Nghi thức này có ở nhiều tộc người: Hmông,
Dao, Sán Dìu, Tày, Nùng, Sán Chay (Cao Lan),
Táy Khao (Thái Trắng),...(6, tr. 363) (21, tr. 69) (16,
tr.54)... Khi đã xin được ấn kiếm, ma thuật, âm
binh về, thầy sẽ làm nghi thức phá ngục, bảo vệ
ma mới và dẫn đi làm các thủ tục ở ba tầng vũ
trụ, do thày cúng đảm nhiệm...2
* Dẫn ma mới đi làm thủ tục ở 3 tầng vũ trụ
Mục đích này được thực hiện thông qua
các nghi thức tế lễ, mo dẫn đường,... trong
tập quán làm ma của các tộc người. Theo tín
ngưỡng của họ, thầy cúng là người đặc biệt, có
khả năng đánh đuổi ma quỷ, bảo vệ ma mới,
biết đường dẫn ma mới đi và giúp ma mới thực
hiện các thủ tục rửa tội lỗi, trả nợ, hầu kiện,
trình báo và xin phép các thế lực siêu nhiên,
dặn dò ma mới cách sinh sống ở thế giới ma,
chuẩn bị và thực hiện các nghi thức đầu thai
làm kiếp người mới. Điều này thể hiện trong
mo tang của các tộc người.
+ Người Mường (Mo Đường lên trời):
(1). Sắm sửa ra đi: Đẻ gà: Sự tích con gà; Dặn
con: Mua sắm, cúng tế, làm cỗ cảm ơn; Tiếng đồn
Mường Trời; Bảo con sắm sửa ra đi: sắm sửa đồ
đạc, tiền của,... ma mới đi; Dọn đồ con khang
(người sang); Dọn đồ kẻ khó...
(2). Ra đường: Dẫn hồn ra đường; Mượn
thuyền xuôi thác Bờ; Xuôi sông Bờ; Thăm đình
bến Tăl; Thăm chợ bến tăl; Từ bến Tăl đi; Lối
vào chạu-rẹ; Gửi gà vàng lịt-vàng là; Lên Thanh
Đồng; Thăm đình Chung Blơi...
(3). Mở cổng vào Mường Trời: Mường Cul
Thai-tả Thổng (cổng Trời); Bà Ngửi; Ông Tín Dín
săn muông; Ông Miùn Ciù-Mành Cành (ông
nghèo khổ); Bà Theng Mư/mụ (chợ Tồng Thì –
Vi Thai);Chạu Rẹ-Thè Mu (Mường Chạu Rẹ-Thè
Mu); Tạng Kha Tạng Khuôc, Lang tả chín tồng;
Mượn thuyền qua sông Lang, bến Loỏng; Cầu kỳ
Liêm La; Keo Reng (thăm sống Tùng, s.Tuộng, s.
Khàng); Bắt kem nhỏ; Bắt Kem lớn; Sắm lễ lên
hầu kiện; Muông thú lên kiện; Chuôc số; Ném
còn; Kéo co; Xin tuông; Bán bông; Mường Lu Ly
- Lu Lít...
(4). Mở cổng trời về trần gian: Trở về trần
gian; Nhòm kho tối kho sáng; Qua sông ly đò
láng; Trả đồ Theng Mư; Xin đuốc vào chùa hàng
Pịp; Mở cổng trời đi xuống; Xuống trần gian,...(1)
Đối với các đám tang thường dân, việc tế lễ
dẫn đường