Một số biến đổi văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình xây dựng nông thôn mới

Tóm tắt Đồng bằng sông Hồng là cái nôi của nền văn hóa, văn minh lúa nước. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, vùng đất này đã bồi tụ những trầm tích văn hóa độc đáo, phong phú, góp phần tạo nên bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc. Ngày nay, trước những tác động từ bối cảnh trong và ngoài nước, nhất là công cuộc xây dựng nông thôn mới, vùng văn hóa đồng bằng sông Hồng đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Nhìn nhận những đổi thay trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân vùng châu thổ sông Hồng để khơi dậy, phát huy những giá trị tiến bộ, khắc phục những bất cập, hạn chế là việc làm có ý nghĩa.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 29 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biến đổi văn hóa ở vùng đồng bằng sông Hồng trong quá trình xây dựng nông thôn mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 31 (Tháng 3 - 2020)62 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA MỘT SỐ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI NGUYỄN HUY PHÒNG* Tóm tắt Đồng bằng sông Hồng là cái nôi của nền văn hóa, văn minh lúa nước. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, vùng đất này đã bồi tụ những trầm tích văn hóa độc đáo, phong phú, góp phần tạo nên bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc. Ngày nay, trước những tác động từ bối cảnh trong và ngoài nước, nhất là công cuộc xây dựng nông thôn mới, vùng văn hóa đồng bằng sông Hồng đã có những biến chuyển mạnh mẽ. Nhìn nhận những đổi thay trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân vùng châu thổ sông Hồng để khơi dậy, phát huy những giá trị tiến bộ, khắc phục những bất cập, hạn chế là việc làm có ý nghĩa. Từ khóa: Biến đổi văn hóa, nông thôn mới, đồng bằng sông Hồng Abstract The Red River Delta is the cradle of wet rice culture and civilization. Over thousands of years of history, this land has fostered unique and rich cultural sediments, contributing to the creation of national identity and cultural traditions. Today, due to the impacts from the domestic and foreign contexts, especially the building process of modern rural areas, the cultural region of the Red River Delta has undergone dramatic changes. Recognizing the changes in the material and spiritual life of the inhabitants of the Red River Delta to arouse, promote progressive values, overcome inadequacies and limitations is a meaningful work. Keywords: Cultural change, modern rural area, Red River Delta Đặt vấn đề Đồng bằng sông Hồng (hay châu thổ sông Hồng) bao gồm 11 tỉnh thành (Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Quảng Ninh) nằm quanh khu vực hạ lưu sông Hồng. Đây là vùng có diện tích nhỏ nhất trong các vùng của cả nước “với 21.260 km2 (chiếm 6,4% diện tích cả nước) nhưng lại là nơi tập trung đông dân cư với 21.566,4 nghìn người, mật độ dân số cũng cao nhất nước với 1.014 người/km2” [7, tr.53]. Nằm ở vị trí địa chính trị quan trọng nên mỗi bước tiến của vùng đều có ý nghĩa lớn đến phát triển chung của cả nước. Trong lịch sử, nơi đây từng diễn ra sự đổi dời, thay thế của các triều đại; nơi ghi dấu những trận đánh oai hùng và những chiến công rực rỡ của cha ông trong cuộc đấu tranh bảo vệ, gìn giữ non sông. Đồng thời, nơi đây cũng chứng kiến những sáng tạo không ngừng của người dân trong sinh hoạt, lao động, trong kháng chiến kiến quốc để kiến tạo lên những giá trị vững bền, tốt đẹp về mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Tiếp nối truyền thống văn hóa ngàn đời, những thế hệ người dân vùng châu thổ sông Hồng ngày nay vẫn luôn nỗ lực, tiếp tục phát huy, viết lên những trang sử mới. Trong quá trình phát triển, cũng như nhiều vùng miền khác, đồng bằng sông Hồng luôn phải đối diện với biến động (trong đó có cả * TS., Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 63Số 31 (Tháng 3 - 2020) NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI những thời cơ và thách thức) đến từ bối cảnh trong và ngoài nước để kiếm tìm con đường phát triển nhanh và bền vững. Một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình vận động, phát triển của vùng thời gian qua là công cuộc xây dựng nông thôn mới. Đây là chương trình được Đảng, Nhà nước phát động vào năm 2010, sau khi Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn được ban hành (Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008). Trong đó, một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Nghị quyết đưa ra là: “Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn nông thôn, nhất là xoá đói, giảm nghèo ở các huyện, xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%. Khắc phục nhanh những vấn đề bức xúc ở nông thôn, trước hết là những tồn tại liên quan tới vấn đề thu hồi đất. Triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới, trong đó thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng đi trước một bước” [1]. Sau 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, diện mạo làng quê vùng đồng bằng sông Hồng có những chuyển biến tích cực cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần. Chương trình đã đem đến một luồng gió mới, tạo không khí hồ hởi, phấn khởi trong toàn dân với khát vọng về một vùng nông thôn ngày càng trù phú, giàu đẹp, văn minh. Nhìn nhận, đánh giá một cách khái quát những tác động của chương trình đến sự biến đổi văn hóa trên một số phương diện tiêu biểu là việc làm có ý nghĩa trong bối cảnh hiện nay. 1. Biến đổi trong tập quán mưu sinh Nằm ở khu vực hạ lưu sông Hồng, cư dân nơi đây từ xa xưa đã biết tận dụng những ưu thế của điều kiện tự nhiên, môi trường để canh tác, sinh tồn với nghề nông trồng lúa nước. Để thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt ở vùng nhiệt đới nắng lắm mưa nhiều, chống lại thiên tai lũ lụt, hệ thống đê điều đã được kiến thiết, xây dựng, tạo nên những công trình bề thế, kiên cố bảo vệ người dân, xóm làng. Vì thế nét đặc trưng, độc đáo trong văn hóa sinh tồn của cư dân vùng đồng bằng sông Hồng là hình ảnh của những con đê uốn lượn bên những dòng sông, bao quanh những thôn làng; là những chòm xóm dân cư đông đúc với những rặng tre, cây gạo, cổng làng; là không gian của những cánh đồng thẳng cánh cò bay Trước và sau đổi mới (1986), đa phần cư dân vùng đồng bằng sông Hồng sống ở nông thôn với nghề nghiệp chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi. Nghề nông gắn bó lâu đời là nghề trồng lúa nước, vì thế, với người nông dân, đất đai gắn bó mật thiết, quyết định đến quá trình mưu sinh của họ. Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa diễn ra vào những thập niên cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, gần đây nhất, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới đã có những tác động lớn làm thay đổi tập quán mưu sinh của nhiều người dân trong vùng. Trước đây, người dân canh tác trên nhiều thửa ruộng với tâm lý cào bằng, ai cũng có phần đất cao, đất trũng. Người dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời, vất vả, tất bật. Những lúc nông nhàn, bằng đôi bàn tay khéo léo, tinh xảo, họ lại sáng chế ra nhiều nghề thủ công truyền thống phục vụ nhu cầu sinh hoạt, lao động và trao đổi giao thương trong vùng như nghề dệt lụa, đan lát, may mặc, thêu thùa, nghè rèn, nghề mộc, khảm trai Hiện nay, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đầu tư về nhân lực, tài lực của Nhà nước và những cách làm sáng tạo của các địa phương, nhiều tỉnh thành đã thực hiện tốt việc dồn điền đổi thửa, tích tụ đất đai nông nghiệp, kênh mương hóa nội đồng; ứng dụng mạnh mẽ cơ khí hóa, tự động hóa và những tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong trồng trọt, hình thành nên những cánh đồng mẫu lớn, tạo ra những vật phẩm đặc trưng theo mô hình “mỗi làng một sản phẩm”. Những cách tân, sáng tạo đó làm năng suất lao động, thu nhập của người dân không ngừng được nâng cao. Hầu hết các tỉnh thành trong vùng như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Ninh Bình, đã đi đầu cả nước trong việc dồn điền đổi thửa, tích tụ ruộng đất để hình thành cánh đồng lớn, đưa cơ giới hóa vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động, từ đó, hình thành các vùng sản xuất tập trung, như: “vùng trồng cà rốt ở Gia Bình rộng 700 ha và vùng Số 31 (Tháng 3 - 2020)64 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA trồng khoai tây ở Quế Võ rộng gần 1.500 ha (Bắc Ninh); vùng trồng cà rốt ở Cẩm Giàng (Hải Dương) rộng trên 500 ha, vùng trồng hành, tỏi tại Kinh Môn (Hải Dương) rộng trên 3.000 ha; vùng trồng hoa, cây cảnh ở Văn Giang (Hưng Yên) rộng trên 250 ha” [4]. Về chăn nuôi, các tỉnh thành trong vùng cũng đi đầu cả nước về việc từng bước giảm mạnh chăn nuôi quy mô hộ, hình thành nhiều trang trại, doanh nghiệp chăn nuôi tập trung quy mô lớn, nhất là chăn nuôi gà và lợn (Hà Nội, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam); bò sữa (Hà Nam, Hà Nội). Trong nuôi trồng thủy sản, các tỉnh ven biển đã và đang phát huy tốt lợi thế để đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, hình thành nhiều vùng sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, như: Vùng nuôi cá vược, tôm công nghệ cao ở Hải Phòng; vùng nuôi ngao giống và thương phẩm chất lượng cao ở Thái Bình, Nam Định; mô hình nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao trong nhà lưới ở Kim Sơn, Ninh Bình Nhờ đó, cuộc sống, thu nhập của người dân không ngừng được cải thiện. Đến hết năm 2018, “thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn ở vùng ước đạt 43,3 triệu đồng/người/năm, cao thứ hai trong cả nước (sau vùng Đông Nam Bộ)” [3]. Những đổi thay trong cơ chế, chính sách đem lại cho người dân nhiều cơ hội thuận lợi để canh tác, mưu sinh với chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao. Quá trình dịch chuyển từ thâm canh nông nghiệp sang sản xuất dịch vụ, từ làm ăn nhỏ lẻ, manh mún chuyển sang chuỗi sản xuất cung ứng dịch vụ với sự cân đối đầu vào, đầu ra theo quy luật thị trường cùng sự liên kết bền chặt của 4 nhà: Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, đã đem lại luồng sinh khí mới cho nông dân, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng. Mức sống và thu nhập được tăng cao, hạ tầng giao thông thuận tiện, mạng internet phủ khắp các xóm thôn, nhiều loại hình dịch vụ mới xuất hiện, đáp ứng tốt nhu cầu, đòi hỏi thiết yếu của người dân. Không chỉ vậy, những năm gần đây, với những cơ chế thông thoáng, chính sách kêu gọi, mở rộng đầu tư của Nhà nước với các quốc gia trong khu vực và quốc tế, nhiều tập đoàn, công ty, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã tìm đến các làng quê vùng đồng bằng sông Hồng để xây dựng nhà máy, thành lập công ty nhằm tận dụng tận dụng nguồn nguyên vật liệu dồi dào, nguồn lao động rẻ tại chỗ để mở rộng sản xuất kinh doanh. Sự xuất hiện của các công ty, nhà máy với quy mô hiện đại, dây chuyền sản xuất tập trung đã thu hút lớn lượng lao động, biến những người nông dân trở thành công nhân, họ được đào tạo, được sống trong môi trường mới, tiếp cận với kỹ nghệ hiện đại, nâng cao trình độ tay nghề và thu nhập của bản thân. Không chỉ tham gia vào các công ty ở ngay tại địa phương, nhiều thanh niên ở các vùng quê đã từng bước vượt ra khỏi lũy tre, cổng làng để vươn đến những môi trường làm việc mới ở các quốc gia tiên tiến. Sự dịch chuyển của người nông dân từ làng quê đến thành thị và xa hơn là đến các nước lớn, ngoài nỗ lực của cá nhân còn có sự hỗ trợ lớn từ các chính sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn của Nhà nước. Sự chuyển đổi nghề nghiệp, phương thức mưu sinh và những tác động của đô thị hóa kéo theo hiện tượng người nông dân dần bỏ ruộng, rời làng để tìm kiếm những không gian sống và môi trường lao động mới. Theo số liệu của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, xu hướng sử dụng đất nông nghiệp tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng đang có sự thay đổi rõ rệt trong những năm gần đây, theo hướng số hộ nông nghiệp ngày càng giảm. Năm 2011, “toàn vùng có 1.999.522 hộ nông nghiệp, đến năm 2016 còn 1.546.211 hộ, giảm 22,7% số hộ (mức giảm của cả nước là 10,5%). Ðồng bằng sông Hồng cũng là khu vực có mức giảm cao nhất so với các vùng khác trong cả nước. Bên cạnh đó, số hộ sản xuất quy mô lớn ngày càng tăng. Năm 2011, số hộ quy mô sản xuất từ 2 đến 5 ha là 13.997 hộ; quy mô từ 5 ha trở lên là 7.998 hộ thì đến năm 2016 con số tương ứng là 15.088 và 8.050, tăng tương ứng 7,8 và 0,7%” [9]. Những con số thống kê trên phản ánh phần nào bức tranh ly nông, ly hương của người nông dân hiện nay, điều vốn ít khi xảy ra trong quá khứ. Về nhiều làng quê ở vùng đồng bằng sông Hồng rất khó để tìm thấy những thanh niên trong độ tuổi lao động, bởi phần lớn họ ra thành thị mưu sinh hay làm công nhân trong 65Số 31 (Tháng 3 - 2020) NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA VĂN HÓA TRUNG - CẬN - ĐƯƠNG ĐẠI những khu công nghiệp, sống ở quê chủ yếu là người già, trẻ con. Đây là một sự chuyển biến nhanh tích cực, một xu thế phát triển tất yếu trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, cho thấy sự linh hoạt, thích ứng, dung hòa với những điều kiện, môi trường làm việc mới của người nông dân vùng đồng bằng sông Hồng - những người cần cù, chịu khó, thông minh và sáng tạo. Mặc dù bên cạnh đó, hệ quả của vấn đề hoang hóa đất đai nông nghiệp, ô nhiễm làng quê đang đặt ra nhiều câu hỏi lớn cần được giải quyết để sinh kế của người nông dân được bền vững, an toàn. 2. Biến đổi trong cảnh quan, không gian cư trú Mục tiêu tổng quát mà Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 hướng đến là “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn phát triển nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị; xã hội nông thôn dân chủ, bình đẳng, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; quốc phòng và an ninh, trật tự được giữ vững” [6]. Đến nay, sau 10 năm thực hiện, diện mạo nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng đã có nhiều đổi thay với không gian, cảnh quan văn hóa ngày càng khang trang, sạch đẹp, không ngừng hướng tới những giá trị văn minh, tiến bộ. Từ khi Chương trình được khởi xướng đã làm lan tỏa, thay đổi tâm lý, thói quen và hành vi ứng xử của nhiều tầng lớp xã hội. Từ việc nâng cao nhận thức về gìn giữ, bảo vệ môi trường, cuộc sống xung quanh đến những hành động nhỏ làm đẹp cho đường làng ngõ xóm được người dân thực hiện như một thói quen, hành vi đẹp không thể thiếu trong cuộc sống đời thường. Những con đường đất nhỏ hẹp, lầy lội xưa kia giờ được bê tông, rải nhựa với khổ đường theo tiêu chuẩn quy định. Nhiều tuyến đường chính, đại lộ của làng được đặt tên; nhiều con đường được bà con trang trí, trồng hoa, treo cờ, lắp đèn thắp sáng cùng những pano, khẩu hiệu tuyên truyền, tạo không gian sáng, xanh, đẹp, mang lại luồng sinh khí mới cho người dân nông thôn. Nhờ sự chung sức, đồng lòng của người dân và quyết tâm cao của chính quyền địa phương nhằm kiến tạo một vùng quê phồn vinh, hạnh phúc, đáng sống, nhiều tỉnh thành vùng đồng bằng sông Hồng đã tạo được sức hấp dẫn lớn đối với du khách trong và ngoài nước bởi không khí trong lành, quang cảnh yên bình, thoáng đãng với những nét vừa cổ kính, nguyên sơ, vừa pha lẫn yếu tố hiện đại, văn minh. Một trong những biến đổi lớn trong văn hóa cư trú là sự thay đổi kiểu dáng trong kiến trúc thiết kế của những ngôi nhà. Trước đây, trong văn hóa cư trú truyền thống, cư dân còn thưa vắng, ruộng đất nhiều, nếp sống của nhà nho chi phối đậm nét trong tính cách gia chủ với ngôi nhà cấp bốn điển hình ba gian hai chái, nhà lợp ngói hoặc mái tranh với những kèo cột rui mè được lắp ráp tinh xảo, công phu, không dùng đinh vít; chất liệu để xây dựng nhà cửa chủ yếu được người dân tận dụng từ những vật liệu sẵn có như đất nung, tre nứa trong tự nhiên, không quá cầu kỳ. Kiểu nhà cấp bốn có mái gianh, nhiều cột kèo, bậc cửa, trước nhà là khoảng không rộng với cây cối um tùm, xum xuê; nhiều thế hệ (tam tứ đại đồng đường) cùng chung sống dưới một mái nhà là kiểu không gian sinh tồn, cư trú chủ yếu của nhiều gia đình ở vùng đồng bằng sông Hồng. Trong giai đoạn hiện nay, việc kiến thiết, kết cấu nhà cửa của người dân nông thôn có nhiều đổi khác do tác động của nhiều nhân tố như sự gia tăng dân số, áp lực của quá trình đô thị hóa, tư hữu hóa khiến diện tích đất đai cho xây dựng nhà cửa bị thu hẹp. Những căn nhà ngang cấp bốn giờ thưa dần, thay vào đó là những ngôi nhà ống, nhà cao tầng mặt tiền nhỏ, chiều dài lớn được xây dựng san sát nhau với kiến trúc hình khối, chất liệu bê tông cốt thép và những kiểu hình trang trí nội thất hiện đại. Trong xu thế phát triển hiện nay, do ảnh hưởng của những trào lưu văn hóa phương Tây, kiểu gia đình hạt nhân (vợ chồng và con cái) là phổ biến, nên nhiều gia đình chia đất, xây nhà, cho con ra ở riêng khi con cái lập gia đình. Đồng thời với mức sống, thu nhập tăng cao, sự giao lưu, tiếp cận thông tin của người dân được mở rộng nên việc áp dụng các mô Số 31 (Tháng 3 - 2020)66 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA hình, kiểu kiến trúc mới trong thiết kế không gian cư trú cũng được người dân quan tâm áp dụng. Bên cạnh những ngôi nhà ống, những dãy phố mới trang hoàng, hiện đại là sự xuất hiện của những căn biệt thự, những ngôi nhà kiểu dáng đẹp, hiện đại xuất hiện nhiều ở làng quê vùng đồng bằng sông Hồng, mang lại bức tranh tươi sáng cho vùng quê, phản ánh cuộc sống tiện nghi, đầy đủ của người dân nơi đây. Hình ảnh những ngôi nhà cao tầng nằm san sát giữa không gian của làng quê cho thấy diện mạo mới của đời sống văn hóa nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng có nhiều khởi sắc, xứng đáng là một trong những vùng đi đầu trong việc thực hiện và hoàn thành các tiêu chí mà Chương trình xây dựng nông thôn mới đề ra. Theo báo cáo của Văn phòng Điều phối nông thôn mới Trung ương, đến hết tháng 2/2019, vùng đồng bằng sông Hồng có 1.537 xã đạt chuẩn nông thôn mới, tương đương 81,4%, vượt xa mức bình quân cả nước là 46,4%. Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, cách ứng xử của người dân trong văn hóa cư trú cũng nảy sinh những bất cập. Việc hình thành những ngôi nhà ống, nhà hộp đã vô hình tạo nên những không gian khép kín, người dân ít tương tác, giao lưu, quan tâm đến hàng xóm láng giềng. Vì muốn tự do, theo đuổi mục đích cá nhân, nhiều bạn trẻ cương quyết muốn tách khỏi gia đình lớn, đề cao chủ nghĩa cá nhân, đồng tiền và lối sống hơn tình thân ruột thịt nên ở nhiều tỉnh thành đã xảy ra những vụ mâu thuẫn, sát phạt lẫn nhau vì tranh giành, phân chia đất đai, của cải. Do tâm lý “con gà tức nhau tiếng gáy”, thích khoe mẽ, trang hoàng bề ngoài cùng thói sĩ diện, nhiều gia đình phải vay mượn ngân hàng, bán bớt đất đai để xây nhà lầu. Ở vùng quê hiện nay còn có sự xuất hiện của các loại nhà, quán dịch vụ như nhà nghỉ, quán internet, karaoke, cầm đồ, tạo nên những gam màu tương phản với khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ rệt. Cùng với đó là những hoạt động trá hình của các loại hình dịch vụ, sự xuất hiện của những băng nhóm xã hội đen, khiến cho nhiều làng quê trở nên kém an toàn với những tệ nạn xã hội mới, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường văn hóa và việc giáo dục, hình nhân cách con người. 3. Biến đổi trong tập quán, lối sống Chương trình xây dựng nông thôn mới không chỉ làm thay đổi diện mạo văn hóa vật chất làng quê theo hướng văn minh, hiện đại mà sâu xa hơn, mục đích lâu bền của Chương trình là đảm bảo cuộc sống an toàn, hạnh phúc, phồn vinh với đời sống tinh thần phong phú, vui tươi, lành mạnh của người dân, để họ được thừa hưởng những thành quả của công cuộc đổi mới, vững tin vào đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và đặc biệt là thêm trân quý giá trị cuộc sống. Đồng bằng sông Hồng trong quá trình triển khai xây dựng nông thôn mới có nhiều điều kiện thuận lợi so với các vùng miền khác, bởi nơi đây là cái nôi của nền văn minh nông nghiệp lúa nước, nơi đóng đô của nhiều triều đại, nơi có Thủ đô Hà Nội anh hùng, thành phố vì hòa bình, nơi có những thành phố năng động, đóng vai trò là cửa ngõ trong giao thương buôn bán với nước ngoài. Đồng thời, trên chính mảnh đất này, những sáng tạo văn hóa của các thế hệ cha ông không ngừng được sản sinh với những loại hình di sản văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo được UNESCO ghi danh công nhận; những giá trị văn hóa truyền thống luôn được các thế hệ gìn giữ, phát huy. Đây cũng chính là mục tiêu hướng đến của Chương trình xây dựng nông thôn mới, đó là gìn giữ những nét đẹp văn hóa dân tộc, bồi đắp thêm những giá trị mới để làm phong phú nền văn hóa dân tộc giàu bản sắc. Sự gặp gỡ giữa Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với Chương trình xây dựn