Tóm tắt. Bài viết này đặt vấn đề nhận diện bước đầu những biểu hiện của tiếng nói
chấn thương trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, mà biểu hiện cụ thể của những
chấn thương ấy có thể nhìn thấy trong nhiều bình diện của các sáng tác của nhà văn
này, trước hết là ở số phận của các nhân vật. Người đọc có thể thấy trong truyện
của nhà văn này thế giới các nhân vật dị tật, các nhân vật bị chết bởi nhiều lí do,
nhất là bởi những tai nạn thương tâm. Đấy là một sự khúc xạ hình ảnh cái chết bởi
chiến tranh và nạn dịch trong lịch sử một dân tộc ít may mắn, nhất là trong khoảng
ba, bốn trăm năm lại nay. Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp còn có biểu hiện
của những chấn thương xuất phát từ sự đứt gãy tri thức, biểu hiện ở các nhân vật trí
thức thôn quê, trí thức “lưu manh”, trong những đối thoại cọc cạch. . .
7 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số biểu hiện chấn thương trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Interdisciplinary Sci., 2013, Vol. 58, No. 10, pp. 42-48
MỘT SỐ BIỂU HIỆN CHẤN THƯƠNG
TRONG TRUYỆN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP
Lê Thanh Nga
Khoa Ngữ văn, Đại Học Vinh
Tóm tắt. Bài viết này đặt vấn đề nhận diện bước đầu những biểu hiện của tiếng nói
chấn thương trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, mà biểu hiện cụ thể của những
chấn thương ấy có thể nhìn thấy trong nhiều bình diện của các sáng tác của nhà văn
này, trước hết là ở số phận của các nhân vật. Người đọc có thể thấy trong truyện
của nhà văn này thế giới các nhân vật dị tật, các nhân vật bị chết bởi nhiều lí do,
nhất là bởi những tai nạn thương tâm. Đấy là một sự khúc xạ hình ảnh cái chết bởi
chiến tranh và nạn dịch trong lịch sử một dân tộc ít may mắn, nhất là trong khoảng
ba, bốn trăm năm lại nay. Trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp còn có biểu hiện
của những chấn thương xuất phát từ sự đứt gãy tri thức, biểu hiện ở các nhân vật trí
thức thôn quê, trí thức “lưu manh”, trong những đối thoại cọc cạch. . .
Từ khóa: Biểu hiện chấn thương, Nguyễn Huy Thiệp, dư chấn, đứt gãy tri thức, văn
nghệ sĩ, ý thức hệ.
1. Mở đầu
Quan sát văn học thế giới và văn học Việt Nam, nhất là những năm gần đây, có thể
thấy một xu hướng khá quan trọng đang thành tựu, là nhà văn đang khắc khoải tìm cách
viết về những hòa trộn kinh nghiệm cộng đồng với trải nghiệm nhiều khi đau đớn của cá
nhân. Đấy là một điều có thể nói đến khi lí giải về cảm hứng lịch sử - quá khứ trong các
tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác, Mai Thục, Sương
Nguyệt Minh, Hòa Vang... và Nguyễn Huy Thiệp.
Cho đến nay, mặc dù đã hơn hai mươi năm trôi qua kể từ khi Phẩm tiết, Vàng lửa,
Kiếm sắc... được công bố, chúng ta có lẽ vẫn đủ cơ sở để khẳng định rằng, trong số các
cây bút viết về những mẩu chuyện, những nhân vật của lịch sử, của quá khứ, Nguyễn Huy
Thiệp là thuộc số ít người thành công và có đóng góp. Và, bên cạnh những nhân vật lịch
sử như Nguyễn Huệ, Nguyễn Ánh, Nguyễn Trãi, Đề Thám,... trong truyện của Nguyễn
Huy Thiệp còn xuất hiện những nhân vật như Trương Chi, Tú Xương, Xuân Hương, nhà
Ngày nhận bài 11/7/2013. Ngày nhận đăng 25/08/2013.
Liên lạc Lê Thanh Nga, e-mail: lethanhnga.tcsl@gmail.com
42
Một số biểu hiện chấn thương trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp
văn họ Vũ, sự xuất hiện phảng phất của Nguyễn Bính, Đồng Đức Bốn... cạnh đó nữa là
Đồ Hoạt, cạnh đó nữa là các nhân vật trí thức, dĩ nhiên phần lớn là những trí thức luôn
mang trong mình tâm trạng “thương nhớ đồng quê” như giáo Triệu, giáo Quỳ... Điều này
có lí do biện chứng mà chúng tôi sẽ chỉ ra ở phần sau.
2. Nội dung nghiên cứu
Khi lí giải cội nguồn của cảm hứng tìm về quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, chúng ta có thể bắt đầu từ cái nhìn xuyên suốt lịch sử, đặc biệt tập trung vào khoảng
ba trăm năm cuối cùng của thời trung đại để thấy những bấp bênh của lịch sử và số phận
nhỏ bé của con người - những thực thể luôn có thể bị nghiền nát dưới những bánh xe lịch
sử. Chính những lối rẽ bất ngờ của lịch sử đã để lại dấu ấn sâu đậm trong sáng tác của
Nguyễn Huy Thiệp như chúng ta đã thấy.
Một cảm hứng khá nổi bật trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp là cảm hứng
của chấn thương. Nhiều khi văn chương của ông như là sự gợi nhớ kí ức của dân tộc về
những va chạm vượt ngưỡng, tạo thành những vết thương nằm ngoài khả năng tiếp cận,
kiểm soát bằng lí tính của chủ thể tri nhận và sáng tạo. Nó chảy một cách khắc khoải,
lặng lẽ trong tiềm thức, và thúc giục nhà văn phải mô hình hóa bằng cây bút một cách vô
thức thông qua các hình tượng văn học (vì, những ý niệm chấn thương ấy không thể diễn
tả bằng các khái niệm chính trị, đạo đức, tình cảm). Những hình tượng văn học, cùng với
những suy tư của người đọc sẽ tạo khả năng kết nối những sự kiện vốn đã khiến tư duy lí
tính, ý thức tỉnh táo trở nên bất lực. Và sự bộc lộ này nhiều khi nằm ngoài tầm kiểm soát,
ngoài ý đồ biểu đạt của người viết bởi chính anh cũng không hề ý thức được, không kiểm
soát được những kinh nghiệm chấn thương vốn thuộc về cộng đồng. Điều đó dẫn đến hiện
tượng lệch pha trên bề mặt văn bản, giữa cái được suy ra so với cái biểu đạt trên bề mặt
văn bản.
Chấn thương trong văn học không phải là sản phẩm tùy tiện của bất cứ thời đại nào.
Chấn thương chỉ xuất hiện khi lịch sử xã hội nảy sinh những cuộc va chạm ngoài tầm
kiểm soát, gây ra những tác động dữ dội, những vết thương tinh thần lớn trong đời sống
loài người. Thời hiện đại, với sự xuất hiện nhiều kiểu loại vũ khí giết người hàng loạt,
các cuộc chiến tranh, tấn công khủng bố giết chết hàng trăm triệu người, và sự tha hóa
ngày càng trầm trọng, ngày càng tinh vi của chính trị, của các bộ máy hành chính, mới
là đất sống của chấn thương, của cảm hứng chấn thương trong văn học. Theo một công
bố gần đây, hiện có 19.000 người tham gia cứu hộ ngày 11/9/2001 đang gặp trục trặc về
sức khỏe và cứ 8 người thì có một người bị chấn thương tâm lí. Cũng từ đó đến nay đã có
817 người chết trong đó có 30 người tự tử, và với những cuộc chiến tranh nhằm vào Iraq,
Afghanistan, hiện nay khi được hỏi, chỉ có 1/3 dân số nước Mĩ cho rằng cuộc sống đã trở
lại bình thường, 2/3 còn lại vẫn thấy mình đang sống trong một cuộc sống bất thường,
bấp bênh [1]. Một đất nước Việt Nam bé nhỏ, luôn đối mặt với thiên tai, đặc biệt là chiến
tranh, liệu người dân đã bao giờ có một đời sống tinh thần bình ổn? Ở một đất nước từ
những bước đầu tiên chập chững làm người đã luôn phải tồn tại trong sự đe dọa của kẻ
43
Lê Thanh Nga
địch bên ngoài, và cũng không phải không ít lần đã trải nghiệm trong những cuộc chiến
tranh nồi da xáo thịt, hẳn nhiên những dư chấn tinh thần ấy không thể không tồn tại trong
tâm thức cộng đồng với tư cách là những kí ức đau đớn. Nhất là khoảng ba trăm năm cuối,
khi chế độ phong kiến bước vào giai đoạn suy tàn, nội chiến liên miên, sau đó là những
cuộc xâm lăng của người Mãn Thanh, Xiêm La, Pháp, Mĩ, rồi hai cuộc chiến tranh ở biên
giới phía Bắc và Tây Nam. Rõ ràng, chúng ta đã mất mát quá nhiều trong cơn bối rối của
lịch sử. Và điều đó chắc chắn tạo nên những dư chấn trong lòng người Việt Nam. Cho đến
nay, hình như đã có thể nói về những biểu hiện của tinh thần chấn thương trong văn học
Việt Nam, với những sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Chu Lai, Lê Lựu... Tuy
nhiên, phạm vi, tính chất, mức độ của vấn đề mà mỗi tác giả quan tâm và biểu hiện có thể
khác nhau.
1. Có thể bước đầu xác nhận những biểu hiện của chấn thương trong các sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp ở khu vực truyện ngắn, trước hết là trong tính tổng quát, dựa trên
những nghiên cứu về nhân vật. Trong một công trình đã công bố năm 2002, chúng tôi đã
đề cập đến một kiểu nhân vật dị tật trong hệ thống các truyện của ông như là biểu hiện
da diết quan niệm về con người bất toàn trong một xã hội đang biểu hiện nhiều trái khoáy
[1]. Tuy nhiên, ý nghĩa đó chưa đủ. Phải nói rằng bên cạnh kiểu nhân vật dị tật, trong
các truyện của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện khá nhiều các nhân vật phải chết. Đấy có thể
coi như là những ám ảnh của tác giả về những mất mát, những tổn thất về thể chất mà
người Việt Nam đã phải gánh chịu trong trường kì lịch sử của mình, mà trực tiếp nhất tác
động đến Nguyễn Huy Thiệp có lẽ là những cuộc chiến tranh mà ông được trải nghiệm,
dù chỉ với tư cách là người chứng kiến và chịu đựng nó. Những cái chết trong truyện của
Nguyễn Huy Thiệp, vì thế là khá phổ biến, dẫu cái chết ấy, bên cạnh sự thảm khốc, tức
tưởi thường mang một vẻ đẹp nào đó, thậm chí là một nét anh hùng, một nét lãng mạn
(kiểu cái chết của một chiến sĩ, một cô gái, một em bé miền Nam... trước 1975): cái chết
của chị Thắm, cái chết của anh giáo Triệu, cái chết của Mị và Minh... Những nhân vật dị
tật trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp như là sự tái hiện hình ảnh tàn phế sau các cuộc
chiến: Cún trong truyện cùng tên, Trùm Thịnh trong Chảy đi sông ơi, đồ Hoạt Mưa Nhã
Nam... Tất cả những nhân vật ấy luôn gợi nhớ kí ức về cuộc chiến như một chấn thương
vĩ đại, sẽ không bao giờ liền miệng của cả một dân tộc. Thậm chí, Ngọc, một nhân vật có
cái tên rất đẹp, là một sinh viên đại học, rất thư sinh, cũng phải đẵn mất một ngón chân,
mà lại bằng dao của những người “kéo cưa lừa xẻ”. Tính chất khốc liệt nằm ngay trong
hình ảnh chiếc búa nện xuống sống dao, và lưỡi dao bập xuống khiến ngón chân hoại thư
văng ra và Ngọc rú lên đau đớn. Hình ảnh này rất gần với hình ảnh được tái hiện bằng thứ
hồi ức đầy thương tích của Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh về những cuộc trả thù, những
cuộc hành quyết man rợ; và nó tái hiện những đau xót của chiến tranh. Và, không biết khi
viết chi tiết đó, Nguyễn Huy Thiệp có nghĩ tới những vần thơ này không:
Một bác sĩ cưa chân
Một thương binh bằng cưa thợ mộc
(Tiếng hát giữa rừng - Huỳnh Văn Nghệ [4])
2. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Huy Thiệp đưa vào thế giới truyện ngắn của
44
Một số biểu hiện chấn thương trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp
mình nhiều nhân vật là trí thức, văn nghệ sĩ. Bởi lẽ, đây chính là bộ phận nhạy cảm nhất
và phức tạp nhất trong xã hội.
2.1. Có người nói: bản chất của trí thức và văn nghệ sĩ, nói chung là bất lực về
chính trị. Trí thức, văn nghệ sĩ vốn là những người thông thái, dĩ nhiên là trong môi trường
kinh viện của họ (chúng tôi đang nói đến những trí thức thực sự) nhưng khi thoát khỏi môi
trường ấy, họ thường trở thành những người ngây thơ, mang trong mình những ảo tưởng về
thế giới và về cả giá trị của chính mình. Sự ngây thơ, hồn nhiên ấy cộng với thói chủ quan
nhiều phần tự cao tầng lớp khiến họ hay trở thành nạn nhân bị lừa phỉnh. Lê Văn Thịnh,
Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Trãi, từ một góc nhìn nào đó, là nạn nhân của trò lừa phỉnh
này. Bi kịch của Nguyễn Trãi chính là ở chỗ xây dựng cho mình những ảo tưởng theo học
thuyết Nho giáo, là ở chỗ không đủ tỉnh táo để nhận ra rằng những trí thức, những kẻ sĩ
hay người xuất thân dòng dõi quý tộc Bắc Hà, sau năm 1428 là những người đầu tiên bị
triệt hạ. Hoặc Nguyễn Trãi hiểu điều đó, nhưng bởi quá tự tin hay cố chấp mà cuối cùng
phải chịu họa tru di. Nguyễn Huy Thiệp có lẽ nhận biết sâu sắc điều này, nhận biết sâu sắc
về bi kịch tinh thần mà Lê Văn Thịnh, Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ... đã chịu đựng,
đã nếm trải, và ông đã thể hiện một cách sâu sắc qua, và bằng sự cô đơn của Nguyễn Trãi
trong Nguyễn Thị Lộ. Một trong những bi kịch khá quan trọng của những trí thức, nghệ sĩ
trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp là bi kịch lạc thời, hoặc tính bất hợp lí tồn tại của họ.
Kể cả Trương Chi, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Trang Sinh hay Điệp Lang,
nhà văn họ Vũ... có thể hoặc không nhận ra, đều tồn tại trong mối bất hòa sâu sắc với
hiện thực, nơi đó có một hệ thống các nhân vật chính trị hoặc một đám đông quần chúng
bất khả tri trước những giá trị của họ. Và dù là tinh hoa, nhưng vì thiểu số, họ buộc phải
chấp nhận bị lái theo, bị chỉ đạo bởi, hoặc sống ép mình trong đông đảo quần chúng “mê
muội”, “nông nổi” ấy. Trương Chi đứng đầu mũi thuyền, trật quần đái vọt xuống sông, hát
những bài hát để lũ hoạn quan và cười nhạo; Nguyễn Trãi cô đơn giữa triều đình, chỉ tìm
được sự sẻ chia, sự chở che nơi bầu ngực mảnh khảnh của Thị Lộ; Xuân Hương lặng lẽ
trong gia đình nhà tổng Cóc, phủ Vĩnh Tường, và khắc khoải trong những cuộc hóa thân
vô tăm tích; Tú Xương với phản ứng duy nhất trước những chuyện thời thế bằng câu cửa
miệng “đa tạ cụ” rồi “thõng tay vào chợ”, nhà văn họ Vũ thu mình trong đám đông ồn
ào; Trang Sinh, Hồ Lang, Điệp Lang... đều mang lấy những đau đớn của kẻ lạc thời; còn
Ngọc, một sinh viên dở dang thì luôn căm thù sâu sắc thế giới: “chỉ có một mình anh, còn
lại là chúng nó”...
2.2. Không khó để nhận ra trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp những vết thương
của trí tuệ, của sự đứt gãy tri thức. Chúng ta biết, với cuộc xâm lăng và “khai hóa” của
thực dân Pháp, đã có một hệ thống tri thức mới được xác lập, đưa Việt Nam thoát khỏi hệ
thống tri thức phương Đông cổ truyền vốn đã khiến xã hội mệt mỏi trong thực tại trì trệ
và u ám. Những thành tựu trong nghiên cứu khoa học, trong sáng tạo văn học đã khẳng
định vai trò ưu việt của hệ thống tri thức mới ấy, và rõ ràng, với nền tri thức ấy, người Việt
Nam đã trở nên tiến bộ, biết cách hòa nhập vào thế giới hiện đại. Tuy nhiên, khi cuộc cách
mạng giải phóng dân tộc được thực hiện, và với cuộc vận động của cách mạng vô sản thì
mọi chuyện phải tạm gác lại. Trong hoàn cảnh đó, đội ngũ trí thức Việt Nam, như chúng
45
Lê Thanh Nga
ta biết, bị phân hóa với một bên là những người tình nguyện theo con đường tiếp nhận hệ
thống tri thức mới để hòa mình vào đời sống chính trị sôi nổi của dân tộc. Bộ phận này
chiếm đa số, kể cả những cây bút tài hoa - những người tưởng chừng sẽ không chịu hiến
thân cho bất cứ tổ chức, tín ngưỡng nào ngoài tín ngưỡng văn chương của họ - như Xuân
Diệu, Nguyễn Tuân... Bộ phận thứ hai, thiểu số, là những người có xu hướng trốn tránh hệ
tư tưởng vô sản để tiếp tục theo đuổi hệ tư tưởng tư sản. Bộ phận thứ nhất đi theo tiếng gọi
của dân tộc và của chính lương tâm họ. Rõ ràng ở đây quyền lợi, lợi ích dân tộc đã thay
thế những lợi ích cá nhân và cất tiếng nói thúc dục lương tri của họ, mặc dù về sau sẽ tiếp
tục có sự phân hóa. Nhưng dù sự chia tay với hệ thống tri thức tư sản có là tự nguyện, thì
đó là với mỗi cá nhân cụ thể. Còn với cái nhìn từ chiều sâu của bản thân hệ thống tri thức,
phải nói rằng đó là một khủng hoảng, một đứt gãy và tạo được một chấn thương.
Hình ảnh của những chấn thương đó, theo chúng tôi, được thể hiện trong sáng tác
của Nguyễn Huy Thiệp bằng môtíp những trí thức nửa vời, những trí thức mà sự nghiệp
học hành của họ không được bao nhiêu, hoặc đấy là những trí thức bất lực, tồn tại trong
thế đối lập, thậm chí thù nghịch với hiện thực, luôn cay đắng nhận ra rằng họ có thể không
cao hơn hiện thực, nhưng họ cũng không giống số đông đang hiến mình một cách vô tư
cho hiện thực. Và những khát vọng của họ về việc sẽ làm một điều gì đó mãi mãi chôn sâu
trong hiện thực nghiệt ngã, bị dẫm đạp bởi những bước chân của cả một cộng đồng đang
bước đi trong quán tính. Sự đứt gãy tri thức như là lí do tất yếu để người đọc thấy một
thực tế là trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp vắng hẳn những trí thức bậc cao, được đào
tạo một cách bài bản, ngoài ông Kháng “dạy mĩ học ở dưới Hà Nội” bị Đặng Xuân Bường
mời “về bú tí mẹ”. Đó là một Khảm đang là sinh viên, nhưng cư xử như một lưu manh, là
ông giáo Quỳ với một cuộc sống vô nghĩa nơi làng quê, là nhà thơ Bùi Văn Ngọc (Thương
nhớ đồng quê), là anh giáo Triệu (Những bài học nông thôn), là ông giáo Hội, là Ấm Huy
(Chút thoáng Xuân Hương), đồ Hoạt (Mưa Nhã Nam), chú Hoạt (Chú Hoạt tôi). Dường
như bọn họ đều trở nên bất lực và vô nghĩa khi đời sống yêu cầu họ làm những việc hoàn
toàn trái với thiên chức của họ. Và dấu vết của sự đứt gãy ấy hiển lộ rõ nhất trong lĩnh vực
văn học: “Văn học Việt Nam, ngay buổi sơ khai của nó, giống như một đứa trẻ nhỏ phải
làm những việc quá sức, những việc không ra gì, thậm chí phải làm chính trị là việc phải
cần nhiều phương pháp ứng đối khuynh hoạt. Người ta chú ý đến bộ mặt bên ngoài hơn
nội dung bên trong. Người ta soi gương, ngắm nghía, trau chuốt bộ mặt cho mình: nào cạo
râu, nặn trứng cá, tỉa lông mày, các cô gái bôi son... Người ta chú ý thái quá đến bộ mặt
bên ngoài, nói nhiều đến con người xã hội...” (Bài học tiếng Việt).
Và điều quan trọng là những nhân vật ấy chủ yếu đều sống ở nông thôn, hoặc với
những người dân nhếch nhác, đần độn và vô nghĩa, cũng như vô hại.
2.3.Một vết thương khác để lại dư chấn trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, có lẽ
chính là cuộc va chạm ý thức hệ. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều trong số các nhân vật
trí thức, nghệ sĩ của Nguyễn Huy Thiệp lại là những người sống ở vùng nông thôn như
các ông giáo Quỳ, giáo Hội, thậm chí từ thành thị về sống ở nông thôn, như giáo Triệu,
nhà thơ Bùi Văn Ngọc... Thêm nữa, chúng ta có thể nhìn thấy trong hình ảnh của Ngọc,
một sinh viên đại học, phải lên rừng để “kéo cưa lừa xẻ”, như một sự trừng phạt, một sự
46
Một số biểu hiện chấn thương trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp
đày ải... Bên cạnh những nhân vật nhân vật trí thức bị đày ải, là nhân vật trí thức chết.
Hình ảnh cái chết của anh giáo Triệu, một người hiền lành, đức độ và phần nào đó là rất
trong trẻo, không chỉ là hình ảnh cái chết của một con người cụ thể, mà là cái chết của
những sinh mệnh nghệ thuật. Mà Triệu lại chết bởi một con trâu điên, trong khi Triệu chịu
báng thay cho cậu bé Tiến. Đây là một chi tiết rất đáng lưu ý khi nói về người trí thức
trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp. Không phải ngẫu nhiên mà nhân vật của Nguyễn
Huy Thiệp, nhiều khi coi văn chương và văn nghệ sĩ không ra gì, còn nhân vật trí thức thì
lại sợ chính văn chương, tri thức: “Bác Ba Đình ạ, ông khách của bác thẹn thò như con gái
ấy. Tôi thấy tướng thông minh nhưng nhiều bất hạnh. Nghe tôi nói nhé: lớn lên chú đừng
sa vào con đường văn chương chữ nghĩa. Thế nào chú cũng ăn đòn. Người ta sẽ nguyền
rủa đấy”. Đó là lời khuyên của anh giáo dành cho Hiếu, nhưng cũng là tổng kết chua xót
về những câu chuyện văn nghệ của quá khứ.
2.4. Ngoài ra, trong truyện của Nguyễn Huy Thiệp, chúng ta cũng có thể thấy được
vết thương trong tâm hồn của tác giả khi chứng kiến sự tha hóa của trí thức, đúng hơn
là sự tha hóa của tri thức. Thay vì định hướng cho xã hội, các nhân vật trí thức ở đây trở
thành những người bất lực, yếm thế, thậm chí, có trường hợp còn trở nên lưu manh. Trong
Không có vua, lão Kiền chửi con trai: “Quân trí thức bây giờ toàn phường phàm phu tục
tử”. Và với tất cả những gì đã xảy ra, kết quả là “tôi thấy buồn vì văn học của ta ít giá trị
thật. Nó thiếu tín ngưỡng và thẩm mĩ đích thực” (lời giáo Triệu trong Những bài học nông
thôn).
3. Chấn thương khiến những nhân vật văn nghệ sĩ, trí thức trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp thường là những người không có một đời sống tư tưởng rõ ràng, thống
nhất và thuần nhất. Những con người ấy là hiện thân của những suy tư pha tạp với tâm
hồn bệnh hoạn mù mờ, trong sự phân thân và chống lại lẫn nhau của các hệ hình tư duy.
Những nhân vật ấy luôn căm ghét sâu sắc số đông với khả năng áp đặt tư tưởng lên những
số phận đơn lẻ. Nhiều nhân vật trí thức của Nguyễn Huy Thiệp luôn có mối căm thù sâu
sắc hiện thực, và phát ra những câu nói mà người đối thoại, hay người trong cuộc không
thể hiểu nổi: “chỉ có mình anh, còn lại là chúng nó” (lời của Ngọc, một sinh viên đại học
thi trượt tốt nghiệp, lên rừng làm thợ xẻ - chi tiết Ngọc trượt tốt nghiệp cũng là dấu hiệu
của sự đứt gãy tri thức). Nhân vật trí thức, nghệ sĩ của Nguyễn Huy Thiệp nhiều khi theo
đuổi những ý tưởng điên rồ, những dòng ý thức miên man, những mảnh ghép rời rạc về
những bình diện thực tại theo những nguyên tắc bất định. Trên cơ sở đó, nhân vật trí thức,
nghệ sĩ, và nhiều khi, cả những tay “lưu manh thứ thiệt” của Nguyễn Huy Thiệp thường
phát ra những câu nói như là chơi trò chơi cấu trúc ngôn từ, hình thành các huyền thoại
ngôn từ có khả năng tạo cú sốc tâm lí, gợi nên đa chiều liên tưởng, sự hoài nghi, và cả
đốn ngộ. Đoài (Không có vua) nói với em trai là Khảm: “Triết học là thứ xa xỉ của bọn
mọt sách. Chú có thấy cái chuỗi hạt nhựa đeo trên cổ chị Sinh không? Nó là triết học
đấy.”; Ngọc (Những người thợ xẻ): “Chúng tôi đi men dưới chân núi, vừa bé nhỏ, vừa cô
đơn, vừa liều lĩnh, mà lại bất lực, thậm chí vô nghĩa nữa. Bạt ngàn là hoa ban trắng, màu
trắng đến là khắc khoải, nao lòng. Này hoa ban, một nghìn năm trước thì mày có trắng
thế không?”... Và ở gần kết thúc truyện: “Chúng tôi cứ đi trên cái cầu vồng bảy sắc. Bạt
47
Lê Thanh Nga
ngàn là hoa ban trắng trên đường, màu trắng đến là khắc khoải, nao lòng. Này hoa ban,
một nghìn năm sau thì mày có trắng thế không?”. Còn chị Thục, một giáo viên cấp hai:
“Nghĩa tình chuộc lại nghĩa tình. Vô sự với tạo hóa, trung thực đến đáy, dù có sống giữa
bùn, chẳng sợ không xứng là người”. Đặng Xuân Bường ngay lập tức có nhận xét khá thú
vị: “Ngọc ơi, mày chép lấy câu này. Nó tù mù về hình thức, nhưng hình như ẩn chứa một
nội dung gì đấy.”; giáo Triệu: “Chú không chống nổi sự ngu