TÓM TẮT
Bài viết nhằm giúp người đọc hiểu thêm về một số căn cứ quan trọng của nghĩa quân Hương Khê, đó là
các căn cứ Thượng Bồng – Hạ Bồng, Vụ Quang – Ngàn Trươi. Khi hưởng ứng Dụ Cần Vương của vua
Hàm Nghi lập căn cứ chống Pháp, Phan Đình Phùng, với tầm nhìn xa trông rộng của một lãnh tụ kiệt xuất
trong phong trào Cần Vương (1885 - 1896), đã nhận thấy rõ địa thế hiểm yếu của vùng rừng núi phía Tây
tỉnh Hà Tĩnh, nên đã lệnh cho Cao Thắng chỉ huy nghĩa quân xây dựng nơi đây thành những trung tâm
căn cứ đầu não kháng chiến chống thực dân Pháp. Tại những căn cứ này, nghĩa quân đã xây dựng lực
lượng, tích trữ lương thực, luyện tập quân sự và tổ chức đánh địch rất hiệu quả, trong đó nổi bật là trận
Vụ Quang diễn ra ngày 26 tháng 10 năm 1894.
9 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số căn cứ quan trọng của nghĩa quân Hương Khê trong phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp trên đất Hà Tĩnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 67 (01/2020) No. 67 (01/2020)
Email: tcdhsg@sgu.edu.vn ; Website:
3
MỘT SỐ CĂN CỨ QUAN TRỌNG CỦA NGHĨA QUÂN HƯƠNG KHÊ
TRONG PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
TRÊN ĐẤT HÀ TĨNH
Some important bases of Huong Khe insurgent army in The Can Vuong
Movement against French colonialism in Ha Tinh province
PGS.TS. Nguyễn Tất Thắng(1), Nguyễn Thị Thanh Thúy(2)
(1),(2)Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
TÓM TẮT
Bài viết nhằm giúp người đọc hiểu thêm về một số căn cứ quan trọng của nghĩa quân Hương Khê, đó là
các căn cứ Thượng Bồng – Hạ Bồng, Vụ Quang – Ngàn Trươi. Khi hưởng ứng Dụ Cần Vương của vua
Hàm Nghi lập căn cứ chống Pháp, Phan Đình Phùng, với tầm nhìn xa trông rộng của một lãnh tụ kiệt xuất
trong phong trào Cần Vương (1885 - 1896), đã nhận thấy rõ địa thế hiểm yếu của vùng rừng núi phía Tây
tỉnh Hà Tĩnh, nên đã lệnh cho Cao Thắng chỉ huy nghĩa quân xây dựng nơi đây thành những trung tâm
căn cứ đầu não kháng chiến chống thực dân Pháp. Tại những căn cứ này, nghĩa quân đã xây dựng lực
lượng, tích trữ lương thực, luyện tập quân sự và tổ chức đánh địch rất hiệu quả, trong đó nổi bật là trận
Vụ Quang diễn ra ngày 26 tháng 10 năm 1894.
Từ khoá: căn cứ, Cao Thắng, Hương Khê, Phan Đình Phùng, Thượng Bồng – Hạ Bồng, Vụ Quang –
Ngàn Trươi
ABSTRACT
The article aims to introduce some of the most important bases of Huong Khe insurgent army: Thuong
Bong - Ha Bong and Vu Quang - Ngan Truoi bases. In response to Cần Vương Edict of Ham Nghi King
for establishing the bases against France, Phan Dinh Phung, with the foresight of the most outstanding
leader in the Cần Vương movement (1885-1896), having clearly realized the dangerous terrain of the
western mountainous region of Ha Tinh province, ordered Cao Thang to command the army to build this
place into the center of the resistance base against the French colonialism. At these bases, the insurgency
built forces, stored food, trained military and organized effective combat against the enemy, of which the
prominent battle of Vu Quang took place on October 26, 1894.
Keywords: bases, Cao Thang, Huong Khe, Phan Dinh Phung, Thuong Bong - Ha Bong, Vu Quang -
Ngan Truoi
1. Mở đầu
Hà Tĩnh là vùng đất nổi tiếng bởi truyền
thống anh hùng bất khuất trong công cuộc
chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc.
Trong phong trào Cần Vương chống thực
dân Pháp cuối thế kỷ XIX, cuộc khởi nghĩa
Hương Khê của Phan Đình Phùng (1885 –
1896) được đánh giá là đỉnh cao của phong
Email: tatthangsp@gmail.com
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020)
4
trào Cần Vương cả nước. Một trong những
nguyên nhân giúp nghĩa quân Hương Khê
có thể kéo dài được cuộc khởi nghĩa hơn 10
năm và gây cho kẻ thù nhiều khó khăn tổn
thất đó chính là nhờ vào hệ thống căn cứ
được xây dựng vững chắc. Trong điều kiện
chống lại kẻ thù mạnh hơn nhiều lần, Phan
Đình Phùng và Cao Thắng đã sớm chú ý tới
việc tổ chức xây dựng căn cứ làm cơ sở cho
nghĩa quân phòng ngự và tấn công tiêu diệt
kẻ thù.
Là một người có nhãn quan quân sự sắc
sảo, có nhiều kinh nghiệm từ thực tiễn đấu
tranh, Phan Đình Phùng ý thức được rằng:
"Muốn thắng giặc mà chỉ dựa vào sự dũng
cảm và hy sinh thôi thì chưa đủ mà phải có
các căn cứ làm chỗ dựa vững chắc" (Nhiều
tác giả, 1971, tr. 57). Nhận nhiệm vụ từ vị
thủ lĩnh Phan Đình Phùng, Cao Thắng đã
nhanh chóng tổ chức xây dựng các căn cứ
địa dựa vào địa hình rừng núi hiểm trở rất
thuận lợi cách đánh du kích của nghĩa quân.
"Tài năng của Cao Thắng được thể hiện ở
chỗ đã biết triệt để lợi dụng điều kiện thuận
lợi này để xây dựng thành những căn cứ
vững chắc, nơi mà nghĩa quân có thể công
thủ toàn diện, là nơi giúp nghĩa quân luyện
tập, ổn định lực lượng và cũng là nơi nghĩa
quân sử dụng để chống lại kẻ thù hoặc có
thể rút lui an toàn nếu gặp tình huống nguy
cấp" (Nguyễn Văn Khánh, 1986, tr. 58).
Một số căn cứ tiêu biểu được nghĩa
quân Hương Khê xây dựng trong thời kỳ
này cho đến nay vẫn còn dấu tích là căn cứ
Thượng Bồng - Hạ Bồng, căn cứ Vụ Quang
- Ngàn Trươi.
2. Một số căn cứ tiêu biểu của nghĩa
quân Hương Khê
2.1. Căn cứ Thượng Bồng – Hạ Bồng
Sau khi rời căn cứ Cồn Chùa1, tháng 6
năm 1889, bộ chỉ huy nghĩa quân Hương
Khê đã quyết định chọn Thượng Bồng - Hạ
Bồng xây dựng thành căn cứ mới. Căn cứ
Thượng Bồng – Hạ Bồng thuộc hai xã Đức
Bồng và Đức Lĩnh nằm phía Tây Nam
huyện Đức Thọ.
Chọn khu vực này làm căn cứ, Phan
Đình Phùng và Cao Thắng có thể phát huy
được bốn yếu tố thuận lợi của nhà binh:
Nhân - Thời - Địa - Thế. Ở đây, nghĩa quân
của Cao Thắng có thể phát huy được thuận
lợi của địa hình tự nhiên, bên cạnh lợi dụng
được thế mạnh "nhân hoà" là vùng nông
thôn rộng lớn, đông dân cư, trù phú và giàu
truyền thống yêu nước. Hai con sông Ngàn
Sâu và Ngàn Phố bao quanh, cùng với dãy
Trường Sơn trùng điệp ở phía Tây, vô tình
đã làm một chướng ngại vật rất khó vượt
qua hơn bất cứ một hệ thống hào luỹ nào do
con người tạo dựng. Nhờ vậy, cả ba mặt của
khu căn cứ đã được che chở, khiến kẻ địch
khó có thể tấn công, còn nghĩa quân lại rất
dễ phòng bị và đánh trả. Lập căn cứ ở vùng
Thượng Bồng - Hạ Bồng, nghĩa quân đã
chiếm được một điểm cao có tầm quan trọng
chiến lược, có thể khống chế cả một vùng
đồng bằng rộng lớn. Đây là nơi có địa hình
khá hiểm trở, đường đi lại khó khăn, cây
rừng rậm rạp che kín bốn mặt. Ngay cạnh
trung tâm Thượng Bồng còn có những dãi
rừng rậm hoang vu. Trong hoàn cảnh chiến
đấu với vũ khí thô sơ, thiếu thốn, vùng
Thượng Bồng - Hạ Bồng thực sự là một căn
cứ lý tưởng của nghĩa quân (Thường vụ
huyện uỷ Đức Thọ, 1998, tr. 45).
Với nhãn quan tài trí sáng suốt của một
người chỉ huy quân sự có tài, Cao Thắng đã
phát huy đến mức tối đa ưu thế của địa hình
để phục vụ cho ý đồ xây dựng lực lượng
nghĩa quân và tổ chức chiến đấu. Không chỉ
chú trọng xây dựng căn cứ Thượng Bồng -
Hạ Bồng, ông còn cho xây dựng thêm các
NGUYỄN TẤT THẮNG - NGUYỄN THỊ THANH THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
5
căn cứ đã có từ trước để làm phòng tuyến từ
xa hỗ trợ và bảo vệ cho căn cứ chính. Ở
vùng căn cứ chính, "Dựa vào đặc điểm địa
hình, Cao Thắng đã đặt hai trại quân ở hai
phía cửa ngõ vào căn cứ. Một đội nghĩa
quân khoảng độ 30 người do ông Hiệp Cứ
chỉ huy đóng ở Hạ Bồng trên tả ngạn sông
Ngàn Sâu, cách trung tâm Thượng Bồng
khoảng 4 km. Đội nghĩa quân này chốt giữ
cửa ngõ Đông - Bắc chặn con đường từ Linh
Cảm lên, cả đường bộ và đường thuỷ. Một
đội nghĩa quân khác 50 người do ông Đề
Châu chỉ huy đóng ở Phương Duệ, về phía
đông - nam Thượng Bồng cách chừng 5 km
chốt giữ cửa ngõ đông - nam và bảo vệ mặt
nam của căn cứ" (Trần Thanh Tâm - Ninh
Viết Giao,1975, tr. 82). Phía sau các trại
quân ở Hạ Bồng và Phương Duệ còn có hai
đội nghĩa quân khác, một đội đóng ở Bàng
Hô (gần chợ Bồng) và một đội đóng ở mé
Tây bàu Xương Ni (phía Nam Thượng
Bồng), chủ yếu là để bảo vệ trung tâm chỉ
huy và ứng cứu cho các trại nghĩa quân ở
phía trước khi cần thiết.
Trung tâm chỉ huy của nghĩa quân được
Cao Thắng đặt ở Rú Cộng (Xóm Điếm). Rú
Cộng thực chất là một ngọn đồi cao chừng
30 mét từ chân đến đỉnh, nằm ngay cạnh
đường đi Hương Khê hiện nay, cách chợ
Bồng 2 km. Dưới chân Rú Cộng có một con
suối chảy vòng từ Tây sang Bắc. Đặt trung
tâm chỉ huy ở đây, những người lãnh đạo
nghĩa quân có điều kiện để theo dõi và chỉ
huy hoạt động của toàn bộ nghĩa quân trong
vùng căn cứ. Đây cũng là điểm sâu nhất
được bảo vệ bằng nhiều lớp vị trí đóng quân
xung quanh. Hơn nữa, khi cần thiết cơ quan
chỉ huy có thể dễ dàng rút về an toàn. Phía
sau Rú Cộng là một bãi đất rộng, có nhiều
lạch nước nhỏ chạy qua. Ngày nay nhân dân
đã khai phá thành đồng ruộng trồng lúa và
hoa màu, nhưng vào thời điểm nghĩa quân
đóng ở đây, bãi này là một bãi tập lớn (Bá
Sĩ Tâm, 1997, tr. 187).
Với căn cứ này, Cao Thắng đã tạo được
thế vừa "công" vừa "thủ" cho nghĩa quân
trong chiến thuật đánh du kích, vốn là sở
trường đánh giặc của cha ông ta từ ngàn xưa
khi phải đối chọi với kẻ thù đông và mạnh
hơn ta nhiều lần. Từ căn cứ này, Cao Thắng
có thể cho nghĩa quân toả xuống tấn công
địch ở vùng đồng bằng, cũng có thể rút về
để bảo vệ khu căn cứ khi bị địch tấn công.
Cũng từ đây, nghĩa quân có thể phân tán lực
lượng vào rừng rậm tránh những mũi đột
kích lớn của địch để bảo toàn lực lượng, chờ
cơ hội tấn công.
So với căn cứ Cồn Chùa trước đây, căn
cứ Thượng - Hạ Bồng là khu căn cứ được
xây dựng hoàn chỉnh và được sắp đặt bố trí
một cách khoa học hơn. Nó không chỉ là khu
trung tâm hậu cần quan trọng, nơi sản xuất
ra những loại vũ khí, mà nó còn tạo thế phát
triển cho cuộc khởi nghĩa. Vùng Thượng
Bồng - Hạ Bồng đã trở thành “nơi bộ chỉ huy
nghĩa quân Hương Sơn đóng đại bản doanh
suốt từ năm 1889 đến cuối 1891” (Trần Huy
Nhượng, 1983, tr.81).
Nhờ vào điều kiện tự nhiên cùng cách
thức xây dựng khoa học, đảm bảo tính công
– thủ toàn diện nên trong hai năm 1889 –
1890, trước nhiều trận càn ác liệt của thực
dân Pháp, nghĩa quân Hương Khê vẫn bám
trụ vững chắc tại căn cứ Thượng Bồng – Hạ
Bồng, không chỉ bảo vệ được cứ địa mà còn
tiêu diệt và tiêu hao nhiều sinh lực địch. Căn
cứ Thượng Bồng – Hạ Bồng cũng là nơi
nghĩa quân tổ chức sản xuất và cất dấu rất
nhiều lương thực; đặc biệt, trong hai năm kể
trên, tại căn cứ này, dưới sự chỉ huy trực tiếp
của Cao Thắng, hàng trăm khẩu súng trường
kiểu 1874 của Pháp đã được những người
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020)
6
thợ rèn sản xuất, đánh dấu một bước tiến
vượt bậc về chất của nghĩa quân Hương Khê.
2.2. Căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi
Với kế hoạch xây dựng “dè phân ly” và
đóng các “đồn phòng triệt”, thực dân Pháp
thực hiện âm mưu chia tách nghĩa quân
Hương Khê với nhân dân địa phương để cắt
đứt nguồn tiếp tế của nhân dân cho nghĩa
quân, đồng thời chúng tiến hành các cuộc
hành quân càn quét dài ngày vào khu căn cứ
chính của nghĩa quân nhằm tiêu diệt lực
lượng khởi nghĩa. Lúc này, căn cứ Hói
Trùng, Hói Trí bị địch uy hiếp mạnh, trước
tình hình đó bộ chỉ huy quyết định chuyển
căn cứ lên Vụ Quang - Ngàn Trươi.
Tháng 2 năm 1890, Phan Đình Phùng
và Cao Thắng gấp rút cho xây dựng Vụ
Quang - Ngàn Trươi từ hậu cứ thành căn cứ
địa kháng chiến chính của nghĩa quân với
yêu cầu được đặt ra là nghĩa quân có thể chủ
động đánh địch, vừa có thể rút lui dễ dàng
trước tình thế nguy ngập để bảo toàn lực
lượng. Đồng thời, đây cũng là nơi có thể
nghỉ ngơi, củng cố lực lượng sau những trận
đánh, có thể tránh được những trận càn lớn
của địch.
Cách xa vùng Trùng Khê - Trí Khê hơn
20km, Vụ Quang - Ngàn Trươi được phân
bố trên một địa bàn rộng lớn nằm sâu trong
khu rừng nguyên sinh hoang sơ và đầy bí
hiểm, xung quanh có núi và khe suối bao
bọc thành một thung lũng thuộc xã Vụ
Quang, cách trung tâm huyện Hương Khê
70km về phía Bắc, cách tỉnh lỵ Hà Tĩnh
160km về phía Tây.
Sở dĩ, Phan Đình Phùng quyết định dời
hẳn đại bản doanh lên Vụ Quang - Ngàn
Trươi là những lý do sau:
- Thứ nhất, Vụ Quang - Ngàn Trươi có
một địa thế rất hiểm trở, muốn vào được căn
cứ phải đi theo một con đường độc đạo vượt
qua nhiều thác ghềnh, khe suối, qua nhiều
phòng tuyến canh gác mới đến được đại bản
doanh của nghĩa quân.
- Thứ hai, về mặt chiến thuật và chiến
lược, đây là địa điểm cơ động rất thuận tiện
cho việc dụng binh của nghĩa quân. Mặt
trước của khu căn cứ nhìn ngay ra đồng
bằng, từ đây có thể quan sát được cả một
vùng rộng lớn phía Tây tỉnh Hà Tĩnh; đằng
sau là rừng rậm, có đường bí mật đi qua đất
Lào và Xiêm. Ngoài ra, Vụ Quang – Ngàn
Trươi còn có một con đường khác đi thông
qua núi Đại Hàm, đây là một dãy núi hiểm
hóc, sơn mạch liên tiếp nhau và đột ngột
khuất khúc. Cứ mỗi trái núi là một khe suối,
hai bên bờ đều có lau sậy mọc quá đầu
người, lối đi vào rất ngoằn nghèo, nếu ai
không thông thạo địa hình thì khó có thể tìm
được đường vào hoặc đường ra. Các tác giả
Hoàng Văn Lân và Ngô Thị Chính trong
cuốn: “Lịch sử Việt Nam” đánh giá: “Đây
(chỉ căn cứ Vụ Quang - Ngàn Trươi NTT) là
một vị trí hết sức hiểm yếu, núi non trùng
điệp, trong đó có dãy Vụ Quang hiểm trở với
khe suối quanh co, lau sậy um tùm, có chỗ
lầy lội bùn sâu đến bụng” (Hoàng Văn Lân
- Ngô Thị Chính, 1976, tr.135).
Theo tư liệu của Đinh Xuân Lâm và
Phan Trọng Báu: “Khu căn cứ Vụ Quang -
Ngàn Trươi sát biên giới Việt - Lào là một
vùng núi cao quanh co khuất khúc, xen lẫn
với các khu đầm lầy lội, sông suối chằng
chịt và những cánh rừng rậm rạp. Từ Vụ
Quang có hai con đường chính tỏa ra xung
quanh, một chạy về phía Tây qua Lào, một
chạy về phía Đông. Trung tâm của khu căn
cứ là thành Vụ Quang (tục gọi là Thanh Lù),
nằm trên đỉnh núi Thanh Lù ở thượng
nguồn, từ dưới nhìn lên là vách đá cao
thẳng đứng. Dòng khe Sa Vanh và một
nhánh của nó bao quanh có tác dụng như
NGUYỄN TẤT THẮNG - NGUYỄN THỊ THANH THÚY TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
7
hai con hào ôm chặt lấy chân thành” (Đinh
Xuân Lâm, Phan Trọng Báu, 1975, tr.49).
Ngoài ra, căn cứ Vụ Quang - Ngàn
Trươi nằm gần hai xã giàu truyền thống đấu
tranh là Minh Hương và Hương Thọ nên
được nhân dân hết lòng ủng hộ, che chở, đặc
biệt “dân chúng trong vùng tham gia lực
lượng nghĩa quân và tiếp vận rất đông” (Di
tích “Khu căn cứ Vụ Quang”, 1976, tr.5).
Trải qua bao biến động của thời gian và
hoàn cảnh lịch sử, khu trung tâm của nghĩa
quân ở Vụ Quang - Ngàn Trươi hiện nay còn
sót lại bao gồm hệ thống thành lũy bao
quanh bên ngoài, bãi tập của nghĩa quân và
một số dấu tích có liên quan đến những trận
đánh nổi tiếng. Thành Vụ Quang được tạo
bởi một lớp đá tự nhiên có tổng chiều dài
8.010m, rộng 150m, mặt tiền của thành
dựng đứng có độ cao trung bình 30m. Hiện
nay, thành còn dấu tích của hai cổng chính
và cổng Đông Bắc. Tại cổng chính, có hai
hòn đá lớn kích thước 2 x 3m, tương truyền
đây là nơi nghĩa quân cụ Phan thay nhau
đứng gác, phía dưới tảng đá là vực thành có
khe nước chảy xiết và nhiều vực thác. Đối
diện với vực thành là dãy núi Giăng Màn tạo
thành thế vững chắc, an toàn cho khu căn
cứ. Ngoài hệ thống đồn lũy, nghĩa quân đã
xây dựng ở đây một bãi tập khá hoàn chỉnh,
bãi tập là một bãi đất rộng, có diện tích 418
x 228m. Phía Tây bãi tập giáp sông Trươi,
phía Đông giáp núi Khê, phía Nam giáp khu
vực xã Hương Điền - đây là nơi nghĩa quân
tập luyện võ nghệ, tập bắn súng và cưỡi
ngựa. Dưới chân núi Giăng Màn có khe Rào
Rồng, ôm lấy chân thành gặp khe Vách Rào
tạo thành dòng sông Trươi.
Tại Vụ Quang - Ngàn Trươi, nghĩa
quân của Phan Đình Phùng đã xây dựng một
hệ thống đồn lũy mang tính chất dã chiến.
Các đồn thường được xây dựng gần sông,
suối, vừa thuận tiện trong vận chuyển lương
thực, vũ khí, lại vừa dễ cơ động chiến đấu.
Trên đỉnh núi Vụ Quang, tục gọi là Thanh
Lù, cao hơn hẳn các ngọn núi trong vùng,
nghĩa quân xây dựng một đồn lũy khá kiên
cố gọi là thành Vụ Quang. Đại bản doanh
của Phan Đình Phùng đóng ở Vụ Quang với
khoảng 500 nghĩa quân trấn giữ. Bên ngoài
có các đội nghĩa quân đóng ở làng Trong,
Khe Công, Cồn Bội, sẵn sàng chiến đấu theo
lệnh của Phan Đình Phùng. Ngoài ra, ông
còn cử một đội nghĩa quân tới Trùng Khê -
Trí Khê xây dựng thêm đồn trại để hỗ trợ
chiến đấu.
Cùng với việc xây dựng hệ thống đồn
lũy, bố trí nghĩa quân đóng giữ và tác chiến,
Phan Đình Phùng còn xây dựng chính quyền
bí mật bên cạnh chính quyền địch. Chính
quyền bí mật của Phan Đình Phùng có
nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa quân, huy động
lương thực và vân chuyển về căn cứ. Ngoài
ra, nghĩa quân dưới sự chỉ huy của viên
tướng trẻ tài năng và dũng cảm Cao Thắng
còn tự nghiên cứu chế tạo vũ khí, trong đó
đã chế được hàng trăm súng trường kiểu
1874 của Pháp.
Dựa vào núi rừng hiểm trở, vào hệ
thống công sự kiên cố ở căn cứ Vụ Quang -
Ngàn Trươi và sử dụng chiến thuật đánh du
kích, nghĩa quân của Phan Đình Phùng đã
phát động nhiều đợt tác chiến nhằm gây
thanh thế, mở rộng khu căn cứ và tiêu hao
sinh lực địch, trong đó có nhiều cuộc tập
kích táo bạo, đánh hạ nhiều đồn bốt, diệt
nhiều toán viện binh, giải thoát nhiều nghĩa
quân bị địch giam giữ, giành nhiều thắng lợi
giòn giã, khiến cho quân giặc phải nhiều
phen kinh hồn bạt vía.
Hoạt động tác chiến mạnh của nghĩa
quân làm cho thực dân Pháp hết sức bối rối,
lo sợ. Trong những năm 1890 - 1894, chúng
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 67 (01/2020)
8
đã nhiều lần đem quân đàn áp cuộc khởi
nghĩa nhưng đều thất bại trước lối đánh du
kích của nghĩa quân. Nửa cuối năm 1894,
thực dân Pháp bắt đầu huy động lực lượng
mở cuộc càn quét lớn vào Vụ Quang - Ngàn
Trươi nhằm tiêu diệt nghĩa quân và lãnh tụ
Phan Đình Phùng, triệt hạ khu căn cứ, dập
tắt phong trào kháng chiến ở miền Trung.
Ngày 26-10-1894, giặc Pháp ồ ạt tấn
công vào căn cứ của nghĩa quân. Biết trước
kế hoạch của địch, Phan Đình Phùng bí mật
cho quân lính phục kích ở hai bên bờ sông
Trươi với kế “sa nang úng thủy” của Hàn
Tín đánh Sở ngày xưa để diệt quân Pháp.
“Biết rằng tiến quân vào căn cứ, thế nào
giặc cũng lội qua sông, cụ bèn cho nghĩa
quân lên rừng đẵn những cây gỗ to rồi dùng
làm kẻ chặn đầu nguồn, ngăn nước sông lại.
Nguồn bị chắn, lòng sông cạn, nước chảy
yếu dần” (Phòng văn hóa - Cục Tuyên huấn,
1960, tr.34). Đúng như dự kiến của cụ Phan,
quân Pháp thấy nước sông cạn liền kéo nhau
vượt sông để tấn công vào căn cứ. Khi giặc
mới lội đến giữa dòng, nghĩa quân được
lệnh của cụ Phan liền phá kè. Thác nước và
thân cây từ nguồn cao đổ xuống không sức
gì cản nổi2. Đồng thời, quân mai phục hai
bên bờ cũng nhằm quân địch mà bắn. Bị bất
ngờ, quân giặc không thể đối phó kịp bị
nước cuốn đi rất nhiều. Chỉ một số ít quân
còn lại đâm đầu chạy thục mạng rồi cuối
cùng cũng bị bắn chết hoặc bị bắt. Kết quả,
3 sĩ quan chỉ huy và hơn 100 lính Pháp bị
tiêu diệt. Vũ khí, trừ một số chìm xuống
sông, còn bao nhiêu nghĩa quân thu hết. Tác
giả Trần Thu Hà trong tác phẩm “Diễn ca”
(Bài khởi nghĩa Phan Đình Phùng) đã có
đoạn miêu tả về chiến thắng vang dội này
của nghĩa quân Hương Khê:
“Lệnh truyền vang cả núi rừng
“Phá kè!” nước xoáy cuốn dòng như lao
Thân cây xô xuống ào ào
Hàng trăm lính giặc lạc vào thủy cung
Giết ba thiếu úy giặc xong
Cướp trăm súng giặc chiến công sáng ngời
Càng thêm tỏ mặt anh tài
Nức danh chiến thuật tuyệt vời cụ Phan”
(Thu Hà, 1959, tr. 21).
Chiến thắng Ngàn Trươi gây một tiếng
vang lớn trong lòng dân, củng cổ tinh thần
chiến đấu của quân sĩ. Tại căn cứ Vụ Quang,
Phan Đình Phùng phấn khởi ghi lại cảm xúc
của mình:
“Non rất cao mà núi rất xinh
Núi non linh hiểm giúp cho mình
Nếu không bên ít bên nhiều thế
Sao đến đầu khe đã hoảng kinh”
(Đào Trinh Nhất, 1974, tr. 11).
Ở đây, chúng ta cần xem lại mốc thời
gian khi trận đánh Vụ Quang xảy ra, bởi vì
cho đến hiện nay đã có nhiều tư liệu trình
bày về trận chiến ở Vụ Quang với các
khoảng thời gian khác nhau. Vì vậy, theo
chúng tôi, cần đưa ra một mốc thời gian
chính xác cho sự kiện này.
Các tác giả sách "Quân dân Việt Nam
chống Tây xâm" cho rằng trận đánh này xảy
ra vào khoảng giữa năm 1892 (Nhiều tác
giả, 1971, tr. 275, 276). Chúng ta cũng bắt
gặp mốc thời gian này ở tư liệu chép tay "Hà
Tĩnh Ất Dậu Ký" của dòng họ Lê ở xã Trung
Lễ, Đức Thọ, Hà Tĩnh: "Năm Thành Thái
thứ tư (1892), chính phủ bảo hộ đem đại
quân lên đánh cụ Phan ở núi Vụ Quang"
(Hà Tĩnh Ất Dậu Ký, tr.34).
Trong khi đó, tác giả Đào Trinh Nhất
chép trận đánh dùng kế "sa nang úng thuỷ"
này xảy ra sau khi Cao Thắng đã hy sinh ở
Nghệ An, nghĩa là phải sau năm 1893 (Đào
Trinh Nhất, 1974, tr. 210).
Các tác giả Hoàng Văn Lân, Ngô Thị
Chính, Trần Bá Đệ viết: "... Địch tấ