Tóm tắt
Người Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú rải rác trên tất cả 63 tỉnh,
thành phố nhưng tập trung tại một số tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41%
dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn tính đến cuối năm 2014 (312.727 người, chiếm 56.35% dân số toàn tỉnh).
Với địa bàn cư trú đa dạng, người Tày đã tạo nên những sắc thái văn hoá địa phương phong phú.Trong
quan niệm của người Tày, dòng họ người có vị trí đặc biệt quan trọng, là một trong những thành tố cốt
lõi tạo nên xã hội, là nền tảng cho sự tồn tại của thiết chế xã hội truyền thống, giữ vai trò quan trọng chi
phối đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, trong sự phát triển chung của quốc gia. Với vai trò to lớn
như vậy, dòng họ người Tày có những đặc điểm để nhận biết lẫn nhau. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi chỉ đề cập tới một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở huyện Bạch Thông tỉnh
Bắc Kạn.
6 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở Huyện Bạch Thông – Tỉnh Bắc Kạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015
80
Một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở
Huyện Bạch Thông – Tỉnh Bắc Kạn
Identifying the Tay clan through typical characters in
Bach Thong district – Bac Kan province
ThS. Triệu Quỳnh Châu
Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên
M.A. Trieu Quynh Chau
Thai Nguyen University of Sciences
Tóm tắt
Người Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú rải rác trên tất cả 63 tỉnh,
thành phố nhưng tập trung tại một số tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41%
dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn tính đến cuối năm 2014 (312.727 người, chiếm 56.35% dân số toàn tỉnh)...
Với địa bàn cư trú đa dạng, người Tày đã tạo nên những sắc thái văn hoá địa phương phong phú.Trong
quan niệm của người Tày, dòng họ người có vị trí đặc biệt quan trọng, là một trong những thành tố cốt
lõi tạo nên xã hội, là nền tảng cho sự tồn tại của thiết chế xã hội truyền thống, giữ vai trò quan trọng chi
phối đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, trong sự phát triển chung của quốc gia. Với vai trò to lớn
như vậy, dòng họ người Tày có những đặc điểm để nhận biết lẫn nhau. Trong phạm vi bài viết này,
chúng tôi chỉ đề cập tới một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở huyện Bạch Thông tỉnh
Bắc Kạn.
Từ khóa: người Tày, tổ tiên, dòng họ, chi họ họ hàng, tín ngưỡng, kiêng kị...
Abstract
The Tay has the largest population of ethnic minorities in our country, residents scattered across all 63
provinces but concentrate in some northern mountainous provincés such as: Cao Bang (207.805 people,
41% of the provincial population), Bac Kan at the end of 2014 (312.727 people, 56.35% of the
provincial population)... Withdiverseresidential locality, the Tay made shades ofrichlocal culture. In the
conception of the Tay, clanman is particularly important. As one of the core elements that makes up
society, and as the foundation for the existence of traditional social institutions, plays an important role
todominate to the fields:economy, culture, society, in the overall development of the country. With such
an enormous role, the Tay clan has the characteristics to recognize each other. Within the scope of this
article, we only mention somerecognizablecharacteristicsofthe Tayclan in Bach Thong district, Bac Kan
province.
Keywords: the Tay, ancestor, clan, triberelative, beliefs, taboos
81
1. Quan niệm về dòng họ của người Tày
Người Tày ở Bắc Kạn nói chung hiện
nay gồm 3 bộ phận hợp thành đó là bộ
phận bản địa từ thời nguyên thủy, bộ phận
người Tày gốc Kinh ở miền xuôi lên, bộ
phận Tày – Nùng từ Quảng Tây (Trung
Quốc) đến Bắc Kạn lập nghiệp. Mặc dù
vậy họ đã sớm hòa hợp, cố kết lại với nhau
thành một khối thống nhất vì sứ mệnh và
lợi ích chung. Chính vì được hợp thành từ
3 bộ phận khác nhau nên người Tày ở Bắc
Kạn có rất nhiều họ như họ Hoàng, Nông,
Ma, Đinh, Hà, Đồng, Nguyễn
Quan niệm về dòng họ được hiểu là
toàn thể những người cùng huyết thống.
Tính huyết thống có thể được tính theo bên
bố (chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (chế độ
mẫu hệ). Theo đó, khi nói tới cấu trúc, tổ
chức dòng họ là đề cập tới cấu trúc, tổ chức
của những người cùng huyết thống. Đối
với trường hợp người Tày, được chọn làm
đối tượng nghiên cứu của luận án này,
dòng họ là toàn thể những người được tính
theo huyết thống bên bố.
Về địa bàn cư trú, trước đây, mỗi họ
thường tập trungsống trong một bản. Dần
dần do yêu cầu phát triển kinh tế văn hóa
hoặc hôn nhân mà có thêm nhiều họ khác
đến cư trú và cùng sinh sống thuận hòa.
Trong mỗi dòng họ có chi trưởng, chi
thứ từ đó hình thành thứ bậc như một quy
định về quan hệ với nhau trong dòng họ.
Nếu như người Nùng, Dao, Sán Chay trong
họ cứ ai nhiều tuổi hơn là anh, là chị thì
với người Tày chi trưởng dù ít tuổi hơn vẫn
là anh, là chị. Người con trai trưởng của
chi trưởng có vai trò quan trọng trong đời
sống dòng họ. Đó là người tham gia và chủ
trì các đám cưới, đám ma, chia gia tài, hòa
giải mâu thuẫn trong dòng họ và giữa dòng
họ này với dòng họ khác.
Người Tày quan niệm người cùng họ là
người có cùng ma. Chính vì vậy nên việc
thờ cúng của những người trong họ là
những người có cùng cách thờ cúng khi
tiến hành các nghi lễ liên quan đến tang
ma, cúng ma khi ốm đau bệnh tật và thờ
cúng tổ tiên. Cùng tên họ là điều dễ nhận
ra, còn cách thờ cúng ma và tổ tiên thì chỉ
những thành viên trong dòng họ mới nhận
biết được. Những người cùng họ không
nhất thiết chỉ là những người thân thuộc có
quan hệ họ hàng mà có thể ở những nơi rất
xa, thậm chí chưa hề quen biết nhau nhưng
khi tìm hiểu có cùng những nghi lễ cúng,
cùng ông tổ thì họ có thể nhận là họ hàng
của nhau. Và khi đã được coi là anh em
cùng dòng họ, mọi người sẽ thật sự cởi
mở và gắn bó chặt chẽ và thân thiết với
nhau. Nơi thờ cúng dòng họ của người Tày
rất đa dạng, tuy nhiên đối với các họ có
người làm quan hoặc trí thức thì thường có
mộ tổ, nhà thờ tổ để thờ cúng. Hàng năm
vào lễ thanh minh (3-3 âm lịch) con cháu
trong dòng họ tập trung về tảo mộ, lần lượt
các chi trong họ thay nhau đứng ra lo đồ
cúng lễ và con cháu trong họ ăn uống ngay
tại mộ. Họ quan niệm con người sống sao
thì khi chết cũng như vậy nên việc con
cháu trong họ ăn uống ngay tại mộ tổ là để
cụ tổ chứng cho tấm lòng, phù hộ, tạo phúc
và giải trừ hoạn nạn cho con cháu. Việc thờ
cúng tổ tiên trong các gia đình của các
dòng họ cũng có sự khác nhau. Có dòng họ
trong bàn thờ tổ tiên có ba, năm hoặc bảy
bát hương. Gia đình nào có ba bát hương là
có ba chén thờ thần thánh, gia tiên và bà cô
ông mãnh; gia đình có năm bát hương là
mời đến năm đời; gia đình có bảy bát
hương là mời đến bảy đời tổ tiên về ngự.
Nói chung việc thờ cúng cho thấy người
Tày luôn có ý thức về cội nguồn, dòng họ.
Trong hôn nhân, người Tày không kết
hôn với người trong họ. Tuy nhiên, trong
82
một họ lại có nhiều chi, nhiều nhánh, nhiều
đời nên cũng có trường hợp người cùng họ
trên bốn đời lấy nhau nhưng đó là trường
hợp hãn hữu, gượng ép, không được đồng
tình ủng hộ. Họ quan niệm: Tổng sliểu lăng
va/ Nà sliểu lăng bjoóc/ Mà chòn choọc
thuôn rà. (đồng thiếu gì hương, ruộng
thiếu gì hoa, mà phải về hái hoa vườn
nhà). Cưới xin như vậy vừa mất họ hàng,
vừa thể hiện sự kém cỏi, đần độn nên mới
phải để dòng họ cưu mang.
Người Tày sống theo chế độ phụ
quyền nên con lấy họ bố. Trong trường hợp
không có con trai thì họ phải lấy con hoặc
cháu của anh em trong họ làm con nuôi để
sau này thờ tự, giữ họ nhà và hưởng gia tài.
Bất đắc dĩ mới lấy rể đời bởi con rể ở
trường hợp này mặc dù được coi như con
đẻ, được thừa kế tài sản nhà vợ nhưng đến
đời con phải mang họ mẹ, họ của bố chỉ
được làm tên đệm. Người đời cho rằng chỉ
con nhà nghèo mới đi làm rể đời để làm
thừa tự. Ngày nay quan niệm trọng nam
khinh nữ đó đã dần tiến bộ và không còn
nặng nề như trước.
Trong mối quan hệ với các thành viên
trong họ, khi có công việc lớn liên quan
đến bất kỳ thành viên nào thì mọi người
trong họ đều cùng nhau bàn bạc hoặc tới
dự để chứng kiến. Mọi người cùng quan
tâm tới nhau từ việc làm nhà, ma chay,
cưới xin, giúp đỡ nhau làm ăn, động viên
bảo ban nhau học tập, lao động và sống có
đạo lý, tự hào về dòng họ của mình và tôn
trọng dòng họ khác. Đối với dòng họ khác,
người Tày có tục đáng trân trọng đó là
nhận anh em nếu như dân tộc khác có họ
trùng với họ của mình.
Có thể thấy quan niệm về dòng họ của
người Tày luôn lấy chữ tình làm trọng:
Ngần chèn tang tôm nhả/ Tha nả tảy xiên
kim (Tiền bạc rẻ rúng như đất cỏ/ Tình
nghĩa mới quý tựa ngàn vàng).
2. Lịch sử dòng họ (nguồn gốc)
Huyện Bạch Thông có 7 dân tộc anh
em cùng chung sống: Tày, Nùng, Kinh,
Hoa, Mông, Dao... thuộc các nhóm ngữ hệ
khác nhau như: Tày - Thái, Mông - Dao,
Việt - Mường, Hán Người Tày, Nùng
vốn thuộc nhóm Âu - Việt trong khối
Bách Việt có địa bàn cư trú là miền Bắc
Việt Nam và miền Hoa Nam Trung Quốc -
Liên minh bộ lạc Âu Việt (Tày - Nùng) đã
cùng với liên minh bộ lạc Việt (Việt -
Mường) thành lập nên vương quốc Âu -
Lạc (thế kỷ III trước công nguyên) với thủ
lĩnh An Dương Vương Thục Phán.
Thời Lý Trần, nhất là thời Lê sơ, nhà
nước phong kiến Việt Nam đặt chế độ
“Thế tập, phiên thần”, tức chế độ thổ ty,
phái một số công thần hay con cháu của
họ chọn trong những phần tử trung kiên
nhất đem theo gia đình, tộc thuộc lên
chiêu dân lập ấp ở miền biên ải. Sau mỗi
trận chiến thắng, quét sạch quân xâm lược
ra khỏi bờ cõi, các vị lưu quan này đời đời
kế tục cai trị địa phương, rất mực trung
thành với chính quyền trung ương làm
nhiệm vụ bảo vệ biên thùy. Người Tày ở
Bạch Thông nói chung phần lớn là cư dân
có nguồn gốc bản địa, bộ phận còn lại là
người Kinh bị Tày hóa.
Dân tộc Tày ở Bạch Thông, xét về
diễn biến tộc người chủ yếu thuộc các
nhóm: Tày Thổ trước, Tày Thổ ty, Tày
Phụ đạo và Người biến Thổ.
Tày thổ trước: là người Tày ở địa
phương đã sinh sống từ lâu đời.
Tày thổ ty: là chủ sở hữu đất đai, rừng
núi, sông nước,muôn thú có nhiều uy
quyền về kinh tế, chính trị, xã hội.
Tày Phụ đạo: Đó là những người Tày
bản địa theo vua Lê mở nước có công dẫn
đường, được phong làm phụ đạo ở bản địa,
83
hưởng chế độ miễn phu lính.
Người Biến Thổ: là những người có
nguồn gốc từ miền xuôi lên vì việc vua
hoặc đi dạy học, hoặc tìm đất sinh nhai
sau ở lại địa phương là măn với người
Tày. Cũng có người từ Trung Quốc lưu
tán sang, qua nhiều năm sinh sống tại địa
phương trải mấy đời đều gọi là Người
Biến Thổ.
Theo số liệu của cuộc tổng điều tra
dân số và nhà ở tính đến hết 2014 số hộ
toàn tỉnh là 76.046, 312.727 nhân khẩu,
người Tày 176.230 chiếm 56,35%. Huyện
Bạch Thông có 8.299 hộ, 33.216 nhân
khẩu, người Tày chiếm đến 63% dân số
của huyện.
3. Nhận biết dòng họ
Nhận biết dòng họ của người Tày ở
Bạch Thông được thể hiện qua các phong
tục tập quán, các nghi lễ vòng đời nhưng
đặc biệt nhất là qua các điều kiêng kị trong
đời sống hàng ngày.
Có rất nhiều điều kiêng kị của người
Tày được thể hiện qua những sinh hoạt
hàng ngày trong vòng đời của mỗi con
người như tục cưới hỏi, ma chay, sinh
nở Sở dĩ người dân tin vào sự kiêng kị là
do quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng
có lành”, tránh tối đa những điều không
may, không tốt đến với mình.
Trước tiên, đó là kiêng kị trong tục lệ
cưới hỏi. Như đã trình bày ở trên, người
Tày kiêng lấy nhau trong cùng họ. Người
trong dòng họ cùng thờ tổ tiên không được
kết hôn với nhau. Họ quan niệm cưới như
vậy sẽ mất họ hàng, thể hiện sự kém cỏi
phải để gia tộc cưu mang chứ không đề cập
tới yếu tố di truyền có hại nếu kết hôn cận
huyết thống.
Sau khi kết hôn, người vợ mang thai
tránh những việc nặng nhọc, không đến các
đám ma, nơi chết chóc đau thương, không
sát sinh, không bước quan các cành cây
xanh, thừng trâu, chạc ngựa vì sợ kéo dài
tháng đẻ. Ngoài ra người chồng cũng phải
kiêng đi khiêng quan tài vì sợ con sinh ra
sẽ mềm yếu. Nếu trong trường hợp bất đắc
dĩ phải khiêng thì sẽ cài một chiếc đũa cả
sau gáy. Trong sinh hoạt hàng ngày không
được thay đổi giường ngủ, buồng nằm,
không tự tiện hái chanh vì sợ chanh sẽ rụng
lá và quả, không tự tiện hái rau thơm vì
như vậy rau sẽ tàn lụi Khi nhà có người
ở cữ sẽ cắm cành cây xanh ở cầu thang
hoặc cửa ra vào có ý báo cho khách không
được tự ý vào nhà vì sợ vía của khách sẽ
làm ảnh hưởng tới sức khỏe của em bé.
Không được mang vật lạ vào buồng sợ bé
bị vía hay sài đẹn
Trong tang ma, thời gian chưa nhập
quan, gia chủ phải canh hoặc nhốt mèo vào
lồng tránh để chúng nhảy lung tung gần
người chết và chạy qua người chết, đề
phòng hiện tượng quỷ nhập tràng, tức là
người chết bật dậy. Con cháu không được
khóc to vì nếu khóc to sẽ làm cho vía sợ,
vong linh người chết khó siêu thoát. Hơn
nữa có quan niệm cho rằng nếu khóc trước
khi phát tang, linh hồn người chết sẽ không
siêu thoát về thế giới bên kia, thậm chí
nước mắt của con cháu có thể làm cho thi
thể chảy nước thối, khiến cho việc làm ăn
của con cháu gặp nhiều khó khăn. Thậm
chí có người còn cho rằng nếu con cháu
khóc trước khi làm lễ nhập quan, thì cuộc
sống của con cháu sau này sẽ chỉ sống
trong nước mắt, vất vả khổ cực mà vẫn
túng thiếu. Khi đã làm lễ phát tang, con
gái, cháu gái của người quá cố không được
chải tóc, soi gương, trang điểm, phải dùng
vải trắng giống như khăn tang để buộc tóc.
Trong những ngày tang lễ, con cháu phải
ăn chay, không ăn thịt, chỉ ăn rau xanh,
đậu, lạc, vừng, chấm muối. Khi ăn cơm,
84
con cháu phải bốc thức ăn đựng trong
máng vàu hay mẹt lót lá chuối chứ không
được ăn bằng đũa, canh đựng trong ống
vàu chứ không được đựng bằng bát đĩa như
ngày thường. Đó là cách bày tỏ lòng hiếu
thảo với cha (mẹ). Kiêng kỵ này xuất phát
từ quan niệm cho rằng: cha mẹ đã phải tần
tảo, khổ cực nuôi con, do đó, khi cha (mẹ)
chết, con cái phải chịu khổ sở và làm cho
mình thật xấu xí để cha (mẹ) ra đi được an
ủi vì sự tiếc thương của con cháu. Mọi nghi
lễ trong đám ma đều do thầy Tào điều
hành. Thầy Tào sẽ quyết định ngày đưa ma
ngay (tiền tang hậu tế) hay đưa ma sau.
Ngày đưa phải kiêng ngày trùng tang, mùa
xuân kiêng ngày thìn, mùa hạ kiêng ngày
mùi, mùa thu ngày tuất, mùa đông ngày
sửu. Ngoài ra khi đưa tang còn kiêng ngày
tuyệt họ như: các họ Hoàng, Hà, Ma, Bế
kiêng ngày dần, họ Cao kiêng ngày thân.
Trong thời gian đang chịu tang, các con
cháu không được tham gia những hoạt
động sinh hoạt văn nghệ ở cộng đồng,
không được đánh trống, đánh chiêng, vợ
chồng không được ngủ chung khi chưa
được 40 ngày, không được đội khăn tang đi
đám cưới, không được dựng vợ gả chồng,
làm nhà mới. Nếu chưa qua lễ 100 ngày,
con cháu không được đi ngủ qua đêm ở
nhà người khác. Người ta quan niệm vợ
chồng ngủ chung, trai gái nô đùa hoặc chửi
bới nhau trong thời gian có đám hoặc khi
chưa được 40 ngày là coi thường các thầy
cúng đến làm lễ, không tôn trọng người
chết, cố tình reo rắc uế bẩn cho tổ tiên cùng
các thần thánh được mời đến chứng kiến
đám, do vậy sẽ làm cho tổ tiên, các thần
linh và người chết phật ý, sẽ gây tai họa
cho con cháu về sau. Sau đám ma khoảng 7
ngày đến nửa tháng, con cháu của người
quá cố kể cả những người đến giúp đám
đều phải kiêng, không được vào chỗ để
thóc giống, không vào vườn hái hoa quả,
không vào những nơi thờ cúng long trọng,
không làm chàm dệt vải... Bởi quan niệm
cho rằng đám ma là nghi lễ buồn và hơi
lạnh của người chết dễ làm cho thóc giống
hỏng, hoa quả thối rụng, nước chàm biến
màu. Khi gieo mạ, xuống thóc giống, trồng
ngô phải tránh ngày mất của cha (mẹ), vì
đó là ngày xấu đối với gia đình nên hạt
mầm cũng sẽ phát triển không tốt.
Trong xã hội hiện nay có sự giao lưu
văn hóa giữa dân tộc Tày và các dân tộc
khác một cách thường xuyên thì những
điều kiêng kị không còn quá cứng nhắc,
khắt khe mà linh hoạt tùy theo điều kiện và
hoàn cảnh.
Ngoài những tục lệ kiêng khem, những
người Tày trong cùng một dòng họ còn
nhận ra nhau qua tên họ, tên đệm. Ví dụ,
với dòng họ Hoàng của người Tày thì
không phải tất cả những người cùng họ
Hoàng đều là họ hàng với nhau. Dòng họ
một phần được đánh dấu bằng tên đệm.
Cùng họ Hoàng lại có dòng họ Hoàng Văn
và Hoàng Khải. Hai dòng họ này chỉ khác
nhau tên đệm nhưng lại thuộc hai dòng họ
khác nhau, không có cùng huyết thống với
nhau. Về vấn đề nhận diện theo tên đệm
với người Tày không theo hệ thống tên
đệm trong dòng họ của người Nùng. Ngoài
ra họ hàng còn nhận ra nhau qua ngày giỗ
tổ. Khi con cái bắt đầu vào tuổi trưởng
thành cha mẹ và họ hàng phải truyền lại
ngày giỗ tổ cho con cháubiết. Hiện nay
vấn đề nhận biết dòng họ còn dựa theo gia
phả của dòng họ. Tuy nhiên không phải
dòng họ nào cũng có điều kiện ghi lại gia
phả hoặc có ghi thì cũng mới chỉ ở mức độ
sơ lược ban đầu. Đây là một vấn đề khó
khăn đặt ra với các nhà nghiên cứu nhân
học nói chung và tác giả nói riêng.
Tóm lại: Người Tày ở tỉnh Bắc Kạn
85
mặc dù có nguồn gốc khác nhau nhưng
trong quá trình sinh sống cùng nhau họ đã
sớm hòa chung và tạo nên bản sắc văn hóa
đặc trưng của dân tộc mình.
Các dòng họ của người Tày nói chung
sống tương đối hòa thuận, không có sự đố
kỹ gay gắt giữa các dòng họ mà trái lại
luôn giúp đỡ cùng nhau phát triển. Cũng
như quan niệm của các dân tộc khác, người
Tày quan niệm mỗi con người từ khi sinh
ra tới lúc qua đời đều bị chi phối bởi ba
mối quan hệ dòng họ đó là: họ bên nội, họ
bên ngoại, họ bên vợ. Cả ba mối quan hệ
họ hàng này đều có vai trò riêng, không
qua coi trọng quan hệ này mà xem nhẹ
quan hệ khác.
Những sinh hoạt tín ngưỡng, thờ cúng
tổ tiên và thờ cúng họ, chi họ; những quy
định thống nhất về lễ nghi và quy tắc ứng
xử khiến cho mối quan hệ giữa các thành
viên trong dòng họ người Tày ngày càng
thắt chặt hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Trọng Am (2011), Văn hoá dòng họ Việt
Nam, Lần thứ nhất, Nxb Văn hoá - Thông tin,
Hà Nội.
2. Hoàng Bé, Hoàng Minh Lợi (1988), “Làng
bản của người Tày”, Tạp chí Dân tộc học số
4, tr.41 - 46.
3. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình
các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Triệu Quỳnh Châu, Làng bản của người Tày
ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng - Luận
văn thạc sỹ 2010.
5. Nông Văn Cử, Vài nét về người Tày ở huyện
Bạch Thông, Tư liệu Viện Dân tộc học.
6. Bế Văn Hậu (2011), “Tôn giáo, tín ngưỡng
của người Tày, Nùng truyền thống và hiện
đại”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11.
7. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn
hóa Tày, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian
Tày, Nùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 09/10/2013 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015