Một số đề xuất nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt chuyên ngành Du lịch cho sinh viên nước ngoài học tập tại khoa Việt Nam học

Tóm t t: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới. Trong đó, đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những vấn đề đang thu hút sự quan tâm từ các cơ quan quản lý giáo dục, lãnh đạo các trường đại học đến các giảng viên trực tiếp đứng lớp. Bài viết này đề cập đến những vấn đề khó khăn của cả giáo viên và sinh viên trong quá trình dạy và học môn Tiếng Việt chuyên ngành Du lịch, từ đó đã đưa ra một số đề xuất về đổi mới phương pháp và giáo trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 157 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đề xuất nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tiếng Việt chuyên ngành Du lịch cho sinh viên nước ngoài học tập tại khoa Việt Nam học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 377 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY MÔN TIẾNG VIỆT CHUYÊN NGÀNH DU LỊCH CHO SINH VIÊN NƯỚC NGOÀI HỌC TẬP TẠI KHOA VIỆT NAM HỌC Nguyn Hi Quỳnh Anh Trường Đại học Hà Nội Tóm t t: Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế, sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, giáo dục và sự cạnh tranh quyết liệt trên nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia đòi hỏi giáo dục phải đổi mới. Trong đó, đổi mới phương pháp giảng dạy là một trong những vấn đề đang thu hút sự quan tâm từ các cơ quan quản lý giáo dục, lãnh đạo các trường đại học đến các giảng viên trực tiếp đứng lớp. Bài viết này đề cập đến những vấn đề khó khăn của cả giáo viên và sinh viên trong quá trình dạy và học môn Tiếng Việt chuyên ngành Du lịch, từ đó đã đưa ra một số đề xuất về đổi mới phương pháp và giáo trình giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy và học. Abstract: Vietnam requires an innovation in education in the context of the international integration, the rapid development of science and technology, scientific education and the fierce competition in many areas among countries. In particular, innovation in teaching methods is one of the issues which are attracting great attention of the education agencies, university leaders and lecturers. This report referred to the difficulties of learning and teaching Vietnamese in Tourism for both teachers and students, then made a number of proposals for innovation in methods and training curricula to improve the quality of teaching and learning. 1. Đặt vấn đề Trong khung chương trình đào tạo cử nhân ngành tiếng Việt và văn hóa Việt Nam cũng như chương trình đào tạo tiếng Việt ngắn hạn (chủ yếu được thiết kế theo yêu cầu của người học và của các trường đối tác) của Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Hà Nội, sinh viên năm thứ 3 sẽ được học môn tiếng Việt chuyên ngành du lịch với tổng thời lượng 120 tiết (tương đương 8 đơn vị học trình). Mặc dù đã qua 2 năm học thực hành tiếng, và đã có được những hiểu biết chung về Việt Nam trên nhiều lĩnh vực nhưng khi tiếp xúc với môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch, sinh viên vẫn gặp khó khăn khi nghe giảng. Làm thế nào để giúp sinh viên nước ngoài có hứng thú với môn học này, làm thế nào để giảng dạy có hiệu quả và đạt được các mục tiêu như khung chương trình chi tiết môn học đã đề ra1 đang là vấn đề được đặt ra với nhiều giáo viên đang giảng dạy tại Khoa. Bài viết đề cập đến thực trạng dạy và học môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch, và dựa trên những kiến thức cũng như kinh nghiệm tích lũy của người viết từ đó đã đưa ra một số đề xuất nâng cao chất lượng dạy và học môn học này. 2. Thực trạng dạy và học môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch tại khoa Việt Nam học Trong khuôn khổ bài viết, người viết đề cập đến phương pháp giảng dạy môn học của giáo viên, ý thức học tập của sinh viên cũng như cuốn giáo trình Tiếng Việt du lịch2 hiện đang được sử dụng tại Khoa Việt Nam học. 2.1. Giáo trình giảng dạy Như chúng ta đã biết, giáo trình có ý nghĩa rất quan trọng trong việc dạy và học. Giáo trình đảm nhiệm nhiều vai trò, từ định hướng quá trình dạy, học đến cung cấp nội dung cho người học, gợi mở việc tự học thậm chí còn rèn luyện kỹ năng cho 1 Xem khung chương trình chi tiết môn học ở phần Phụ lục. 2 Tiếng Việt du lịch, Lê Đình Tư (chủ biên), Nguyễn Việt Lê, Nguyễn Thùy Minh, Đỗ Thu Trang, Khoa Việt Nam học – Đại học Hà Nội, Hà Nội, 2008 (tài liệu lưu hành nội bộ). Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 378 giảng viên. Một giáo trình hữu ích phải được xây dựng trên cơ sở xác định được một cách rõ ràng đối tượng, mục tiêu, yêu cầu giảng dạy cùng với nội dung phù hợp, khoa học, cập nhật, thiết thực. Trên thị trường hiện nay có bán rất nhiều các giáo trình, tài liệu giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngoài với sự đa dạng về trình độ, về mục đích, phạm vi đào tạo. Hầu hết tác giả của các giáo trình này đều là những nhà nghiên cứu Việt ngữ, những giảng viên giảng dạy ngôn ngữ học và Việt ngữ học. Tuy nhiên những bộ giáo trình tiếng Việt chuyên ngành có tính hệ thống vẫn còn rất thiếu. Xuất phát từ yêu cầu thực tế, nhóm chuyên môn của Khoa đã biên soạn giáo trình Tiếng Việt du lịch dành cho người nước ngoài. Đến nay, cuốn giáo trình này đã được dùng để giảng dạy ở Khoa được gần 6 năm. Giáo trình gồm 20 bài được biên soạn theo những nội dung có liên quan đến lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên các bài học trong giáo trình lại được phân bổ một cách ngẫu nhiên mà không theo bất kì phạm vi chủ đề, theo chương hay tiêu chí nào. Theo khảo sát của người viết, nếu dựa vào nội dung khái quát của mỗi bài được thể hiện ở tiêu đề bài học thì 20 bài học trong cuốn giáo trình có thể được phân bổ theo các chương như sau: STT Tên chương Số bài mỗi chương/20 bài Tỉ lệ % 1. Luật Du lịch 4 bài 20% 2. Các loại hình du lịch 4 bài 20% 3. Các tiềm năng du lịch Việt Nam 9 bài 45% 4. Du lịch và môi trường 2 bài 10% 5. Mối quan hệ giữa du lịch và kinh tế 1 bài 5% Bảng 1.Bảng phân bổ các bài học theo chương trong giáo trình Tiếng Việt Du lịch Từ “Bảng 1”, người viết xin đưa ra “Biểu đồ tỉ lệ % sự phân bổ các bài học theo chương” để người đọc có thể thấy rõ hơn sự chênh lệch về số lượng bài giữa các chương như sau: Hình 1. Biểu đồ tỉ lệ % sự phân bổ các bài học theo chương Dựa vào Hình 1, người viết xin nêu ra cụ thể số lượng bài và tiêu đề của mỗi bài ở mỗi chương, cụ thể như sau: a) Chương Luật Du lịch: trong số 20 bài học của giáo trình Tiếng Việt du lịch có 4 bài có nội dung liên quan đến luật Du lịch, chiếm tỉ lệ 20%, bao gồm các bài: - Bài 1: Khái quát chung về luật Du lịch. - Bài 7: Khách du lịch 20% 20% 45% 10% 5% Lu?t Du l?ch Các lo?i hình du l?ch Các ti?m nang du l?ch Vi?t Nam Du l?ch và môi tru ?ng M?i quan h? gi?a du l?ch và kinh t? Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 379 - Bài 14: Hướng dẫn du lịch - Bài 17: Quy định chung về kinh doanh du lịch b) Chương Các loại hình du lịch: có 4/20 bài học có nội dung liên quan đến chương này, chiếm tỉ lệ 20%, cụ thể như sau: - Bài 3: Các loại hình du lịch - Bài 13: Du lịch biển - Bài 15: Du lịch miệt vườn - Bài 16: Du lịch sông nước c) Chương Các tiềm năng du lịch Việt Nam: chương này có 9/20 bài, chiếm tỉ lệ cao nhất 45%. Mỗi bài học trong chương giới thiệu về một địa danh Du lịch nổi tiếng của Việt Nam, cụ thể như sau: - Bài 2: Các tiềm năng du lịch Việt Nam - Bài 5: Cúc Phương - Vườn quốc gia đa sắc màu - Bài 6: Mai Châu – Thung lũng yên ả - Bài 8: Nhà thờ đá Phát Diệm – Một công trình kiến trúc độc đáo - Bài 9: Trẩy hội Chùa Hương – Hành trình về miền đất Phật - Bài 11: Yên Tử - Kinh đô Phật giáo Việt Nam - Bài 12: Tam Cốc Bích Động - Hạ Long trên cạn - Bài 18: Du lịch Tây Nguyên - Bài 19: Du lịch Quảng Nam – Đà Nẵng d) Chương Du lịch và môi trường: có 2/20 bài, chiếm tỉ lệ 10%, bao gồm các bài sau: - Bài 4: Du lịch và môi trường tự nhiên - Bài 20: Du lịch và môi trường xã hội e) Chương Mối quan hệ giữa du lịch và kinh tế: chương này chiếm tỉ lệ thấp nhất 5%, chỉ có 1/20 bài, cụ thể: - Bài 10: Vai trò của du lịch Việt Nam trong phát triển kinh tế Qua phân tích trên đây, chúng ta nhận thấy rõ rằng sự phân bổ các bài ở mỗi chương trong giáo trình Tiếng Việt du lịch không đồng đều. Như trình bày ở trên, môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch là môn học bắt buộc, có tác dụng hỗ trợ kỹ năng ngôn ngữ của người học thông qua các kiến thức về lĩnh vực du lịch, kỹ năng ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội trong hoạt động du lịch, giúp người học có thể hiểu rõ hơn tầm quan trọng của du lịch với sự phát triển kinh tế. Nhưng theo sự phân bổ các bài trong giáo trình như hiện nay, nhóm tác giả quá chú trọng việc giới thiệu các tiềm năng, địa danh du lịch của Việt Nam, trong khi đó lại không mấy quan tâm đến mối quan hệ giữa du lịch và sự phát triển kinh tế, mà đây lại là một vấn đề vô cùng quan trọng, có tính định hướng nghề nghiệp cho sinh viên. Ngoài ra, như chúng ta đã biết để phát triển du lịch thì điều kiện đầu tiên không thể thiếu là tài nguyên thiên nhiên. Trong đó thì môi trường tự nhiên như môi trường nước, không khí, là yếu tố chính nhằm đem đến sự thoả mãn cho du khách du lịch, nhưng số lượng bài trong chương môi trường và du lịch lại quá ít, chưa đủ để nói lên tầm quan trọng của môi trường trong quá trình phát triển du lịch. Về cấu trúc mỗi bài học: tất cả các bài học trong giáo trình đều được thiết kế theo cùng một cấu trúc gồm ba phần: bài đọc, từ ngữ và bài tập. Các dạng bài tập được khai thác chủ yếu là: điền từ vào chỗ trống, hoàn thành câu, trả lời câu hỏi, nối lời giải thích ở cột A với cột B, dựa vào nội dung bài đọc cho biết thông tin đúng, sai, nghĩa là hoàn toàn giống với các dạng bài tập của môn thực hành tiếng mà sinh viên đã học ở 2 năm đầu. Trong giáo trình, các dạng bài tập sử dụng ngữ cảnh và tình huống giao tiếp gắn với nội dung môn học, những bài tập để kiểm tra, đánh giá cũng như nâng cao được kiến thức về lĩnh vực du lịch cho sinh hầu như vắng bóng. Điều này hạn chế đáng kể sự sáng tạo của giáo viên và hoạt động tích cực của sinh viên. Thực ra nếu căn cứ vào những tiêu chí của một giáo trình theo đúng nghĩa thì khó có thể nói tài liệu này là một giáo trình thực sự mà chỉ có thể coi là một tập bài giảng, bởi chỉ xét riêng về phương diện cấu trúc hình thức thì “tài liệu” này lại thiếu một phần lẽ ra không thể thiếu là phần mở đầu. Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 380 2.2. Trang thiết bị dạy-học Trong xu thế dạy tiếng theo mô hình hiện đại như hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy là rất cần thiết, nhất là đối với một môn học như môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch. Không thể phủ nhận rằng các thiết bị trực quan như: máy tính, máy chiếu, loa đài, tranh ảnh, góp phần không nhỏ trong việc tạo ra hứng thú học tập cho sinh viên và cho sự thành công của buổi học. Nhưng trên thực tế, những thiếu thốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt là thiếu các phòng học đa phương tiện như hiện nay đã khiến cho việc giảng dạy của giáo viên gặp nhiều khó khăn. Tình trạng dạy chay, học chay vẫn là phổ biến. 2.3. Phương pháp giảng dạy của giáo viên Ai cũng biết, phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Trên thực tế đã có rất nhiều các cuộc hội thảo, các buổi tọa đàm, cũng như các đề tài nghiên cứu, tài liệu luận bàn về vấn đề này. Thế nhưng, cho đến nay, một bộ phận không nhỏ giáo viên vẫn chưa thoát ra khỏi phương pháp giảng dạy theo lối truyền thống “Lấy giáo viên làm trung tâm”, dẫn đến hệ quả là học sinh học tập một cách thụ động, thiếu tính độc lập và sang tạo. Bên cạnh đó, một số giáo viên còn chưa đầu tư thời gian sưu tầm thêm tài liệu phụ trợ (hình ảnh minh hoạ, video clip và một số tài liệu tham khảo khác) để làm phong phú thêm cho bài giảng, khiến bài giảng thiếu sinh động, không thu hút được sự chú ý của sinh viên. 2.4. Ý thức học tập và trình độ tiếp thu của sinh viên Hiện nay, Khoa Việt Nam học đang giảng dạy cho sinh viên đến từ 25 quốc gia trên thế giới. Đặc thù của các sinh viên học tập tại Khoa là không phải thi tuyển đầu vào, chính vì vậy chất lượng đầu vào của sinh viên rất không đồng đều. Sự chênh lệch về trình độ của sinh viên trong cùng một lớp đã gây ra không ít khó khăn cho người dạy. Thêm nữa, 2/3 số sinh viên trong khoa là sinh viên Trung Quốc. Theo quan sát của chúng tôi, phần đông các sinh viên này đã quen với lối học thụ động, quen nghe, quen chép, ghi nhớ và tái hiện lại một cách máy móc, rập khuôn những gì giáo viên truyền đạt mà chưa quen với việc chủ động nghiên cứu và tìm hiểu các tài liệu liên quan đến bài học để từ đó có thể phản biện lại giáo viên. 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch tại khoa Việt Nam học Với thực trạng như đã nêu trên, có thể thấy, để nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch tại khoa Việt Nam học, đòi hỏi phải có một sự thay đổi lớn về nhiều phương diện. Qua thực tiễn giảng dạy, người viết xin đề xuất một số giải pháp để cải thiện tình hình giảng dạy và học tập môn học này như sau: 3.1. Xây dựng và chỉnh sửa giáo trình Theo khung chương trình chi tiết môn học hiện hành tại Khoa thì môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch hướng đến mục tiêu cung cấp cho sinh viên nước ngoài một cái nhìn tổng quan về một số loại hình du lịch, cách thức giao tiếp, văn hóa, trong du lịch, đồng thời giúp họ có được kỹ năng sử dụng tiếng Việt chuyên ngành một cách chuyên sâu. Như vậy, khi biên soạn hay chỉnh sửa giáo trình môn học này, người biên soạn cần chú ý đến những vấn đề sau: + Trước khi bắt tay vào biên soạn hay chỉnh sửa, cần xác định rõ bố cục của giáo trình (giáo trình gồm bao nhiêu chương, quan hệ giữa các chương, số lượng bài trong mỗi chương,). + Trong mỗi bài học cần có bảng từ để giới thiệu những thuật ngữ chuyên ngành về chủ đề có liên quan. Hệ thống bảng từ cần được thống nhất, tránh bị lặp lại giữa các bài. + Kết cấu trình bày dễ hiểu, bắt mắt (có thể đưa tranh, ảnh minh họa) nhằm tạo ấn tượng cho sinh viên. + Hệ thống bài tập cần phải bổ sung thêm các dạng bài tập trắc nghiệm khách quan, các bài tập Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 381 thực hành giao tiếp gắn với lĩnh vực du lịch, các dạng bài tập thảo luận, bài luận chuyên sâu về lĩnh vực du lịch 3.2. Đổi mới phương pháp giảng dạy Như đã trình bày ở trên, phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố quan trọng và ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Bản chất, mục tiêu của phương pháp giảng dạy ở đại học là dạy làm sao để sinh viên có thể tự học, biết cách tự học, tự đọc sách, tự nghiên cứu, tự suy nghĩ. Để đạt được mục tiêu giảng dạy này, người giáo viên luôn phải tìm tòi, sáng tạo và tham khảo những cách thức giảng dạy phù hợp với đối tượng trong từng hoàn cảnh cụ thể để giúp sinh viên có thể tiếp nhận kiến thức một cách chủ động, hiệu quả. Trong bài viết này, người viết xin phép chỉ đề cập đến một số phương pháp giảng dạy đặc thù mà người viết đã áp dụng thử nghiệm một trong những phương pháp đó trong quá trình giảng dạy môn Tiếng Việt chuyên ngành du lịch cho sinh viên nước ngoài và nhận được phản hồi tích cực từ phía sinh viên. 3.2.1. Phương pháp vấn đáp Phương pháp vấn đáp là phương pháp giáo viên khéo léo đặt hệ thống câu hỏi để sinh viên trả lời nhằm gợi mở cho họ sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện những tài liệu đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong cuộc sống, nhằm giúp học sinh củng cố, mở rộng, đào sâu, tổng kết, hệ thống hoá những tri thức đã tiếp thu được và nhằm mục đích kiểm tra, đánh giá và giúp học sinh tự kiểm tra, tự đánh giá việc lĩnh hội tri thức. Trong quá trình lên lớp, giáo viên có thể áp dụng phương pháp này theo các quy trình như sau: - Trước giờ học: Thông thường bài học nào cũng có tiêu đề riêng, và tiêu đề của mỗi bài học cũng chính là nội dung khái quát của bài học đó. Để sinh viên nắm rõ và hiểu được nội dung mình sẽ học trong buổi học hôm đó, giáo viên nên viết tiêu đề mỗi bài học lên bảng sau đó đặt câu hỏi theo tiêu đề bài học đó, như vậy sinh viên sẽ phần nào có được cái nhìn khái quát về nội dung buổi học, và sẽ gây được hứng thú, tò mò cho sinh viên trong quá trình học tập. Ví dụ trong giáo trình Tiếng Việt du lịch (dành cho sinh viên nước ngoài do giáo viên Khoa Việt Nam học biên soạn), bài 4 có tiêu đề “Du lịch và môi trường tự nhiên”. Vậy để dẫn dắt sinh viên vào bài học, giáo viên có thể đặt một số câu hỏi liên quan đến nội dung bài học như “Theo em, du lịch và môi trường tự nhiên có mối quan hệ như thế nào? Môi trường tự nhiên có tác động gì đối với sự phát triển du lịch? Chúng ta cần có những biện pháp gì để bảo vệ môi trường du lịch?” - Trong giờ học: Trong quá trình giảng bài đọc, giáo viên có thể chủ động chuẩn bị trước một hệ thống câu hỏi liên quan đến nội dung bài đọc. Hoặc giáo viên nên cho sinh viên một khoảng thời gian từ 10-15 phút để các em đọc lướt qua bài đọc, sau đó khi tiến hành giảng bài đọc, giáo viên yêu cầu sinh viên đặt câu hỏi theo nội dung bài đọc và gọi sinh viên khác trả lời. - Kết thúc buổi học: giáo viên lại đưa ra một số câu hỏi để tổng kết nội dung bài học và cũng là một hình thức kiểm tra, đánh giá xem sinh viên nắm được nội dung của bài học hay không. Nói tóm lại, phương pháp này có thể kích thích tư duy độc lập của sinh viên, dạy sinh viên cách tự suy nghĩ và hiểu nội dung học tập hơn là học vẹt, thuộc lòng. Ngoài ra, còn lôi cuốn sinh viên tham gia vào bài học, làm cho không khí lớp học sôi nổi, sinh động, kích thích hứng thú học tập và lòng tự tin của sinh viên, rèn luyện cho sinh viên năng lực diễn đạt sự hiểu biết của mình và hiểu ý diễn đạt của người khác. 3.2.2. Phương pháp hoạt động nhóm Phương pháp hoạt động theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực của người học. Phương pháp này là một hình thức xã hội của dạy học, trong đó sinh viên của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ (từ 3 đến 5 người), trong khoảng thời gian Ti u ban 3: Đào to ting Vit nh mt ngoi ng cho ngi n c ngoài 382 giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Tuỳ mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi trong từng phần của tiết học, được giao cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Phương pháp hoạt động nhóm giúp các thành viên trong nhóm chia sẻ các băn khoăn, kinh nghiệm của bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động từ giáo viên. Chính vì vậy, khi áp dụng phương pháp hoạt động nhóm vào giảng dạy, giáo viên phải là người đưa ra định hướng cho sinh viên. Giáo viên phải là người có năng lực lập kế hoạch và tổ chức. Trước khi áp dụng phương pháp này, giáo viên phải chuẩn bị trước, phải xem chủ đề của buổi học đó có hợp với dạy học nhóm hay không? Nên để các nhóm làm việc với nhiệm vụ giống nhau hay khác nhau? Cần tổ chức lớp học, kê bàn ghế như thế nào? Thời gian 1 tiết học hoặc 2 tiết học có đủ để hoạt động theo nhóm hay không? Việc chia nhóm nên dựa theo tiêu chí gì? Thông thường, nếu trình độ của sinh viên trong lớp tương đương như nhau thì giáo viên có thể cho sinh viên chủ động chọn nhóm và phân nhóm, nhưng nếu trình độ của sinh viên không đồng đều, có sự chênh lệch lớn thì giáo viên nên tham gia vào việc phân nhóm. Ngoài ra, thành công của công việc nhóm còn phụ thuộc vào việc các yêu cầu công việc mà giáo viên đề ra phải rõ ràng và phù hợp với sinh viên. 3.2.3. Phương pháp tọa đàm – Serminar Phương pháp serminar là một hình thức tự học kết hợp với thảo luận khoa học, thường được sử dụng ở các trường đại học, cao đẳng. Serminar được xem như một loại bài tập tự học bắt buộc, khi giáo viên sử dụng phương pháp serminar thì sinh viên buộc phải đọc tài liệu, tìm kiếm thông tin để hoàn tất nhiệm vụ học tập. Qua các buổi serminar, sinh viên được rèn luyện kỹ năng tự học, biết