Một trong những tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu để đánh giá một nhà báo chính là năng lực
vềngôn ngữcủa anh ta. Không thểcó tác phẩm hay, đạt hiệu quảtác động lớn nếu trình độsửdụng
ngôn từyếu kém. Tuy nhiên, năng lực ngôn ngữkhông phải tựnhiên mà có, đó là thường là kết quả
của một quá trình học tập và rèn luyện nghiêm túc, công phu. Do vậy, không phải tình cờmà mọi
cơsở đào tạo vềbáo chí-truyền thông trên thếgiới đều rất chú trọng việc giảng dạy, bồi dưỡng các
kiến thức vềngôn ngữcho học viên.
Trong bài viết này, chúng tôi xin đềxuất một sốgiải pháp nhằm nâng cao năng lực vềngôn
ngữcho học viên trong quá trình đào tạo nhà báo ởnước ta.
1. ĐIỀU CHỈNH CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC VỀNGÔN NGỮCHO
HỢP LÍ, ĐÁP ỨNG NHU CẦU NGHỀNGHIỆP SAU NÀY CỦA NGƯỜI HỌC
Hiện tại, trong chương trình đào tạo cửnhân báo chí hệ4 năm có 3 môn học vềngôn ngữlà
Tiếng Việt thực hành (45 tiết), Ngôn ngữbáo chí (dao động từ30 đến 60 tiết tuỳtheo từng đối
tượng học viên cụthể) và Biên tập văn bản báo chí (45 tiết). Trong khi đó, trước đây sinh viên được
học 4 môn liên quan tới ngôn ngữvà với thời lượng cao hơn: Cơsởngôn ngữhọc (60 tiết), Tiếng
Việt thực hành (60 tiết), Ngôn ngữbáo chí (60 tiết), Biên tập văn bản báo chí (60 tiết). Nhưvậy, rõ
ràng chương trình hiện nay có sựcắt giảm đáng kểso với trước kia. Tất nhiên, trong bối cảnh phải
đưa thêm những môn học mới vào chương trình đào tạo thì sựcắt giảm một sốmôn học nào đó là
không tránh khỏi. Nhưng nếu xuất phát từquan niệm rằng ngôn ngữlà công cụ đặc biệt quan trọng
(nhiều trường hợp là duy nhất) của nhà báo thì việc cắt giảm nói trên chưa thực sựthoả đáng. Một
người không giỏi vềsửdụng ngôn ngữthì không thểtrởthành nhà báo giỏi. Mà muốn giỏi, anh ta
rất cần được học hành đến nơi đến chốn.
4 trang |
Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1336 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số đề xuất nhằm nâng cao năng lực về ngôn ngữ cho học viên của các cơ sở đào tạo báo chí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC VỀ NGÔN NGỮ CHO
HỌC VIÊN CỦA CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO BÁO CHÍ
Hoàng Anh1
Một trong những tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu để đánh giá một nhà báo chính là năng lực
về ngôn ngữ của anh ta. Không thể có tác phẩm hay, đạt hiệu quả tác động lớn nếu trình độ sử dụng
ngôn từ yếu kém. Tuy nhiên, năng lực ngôn ngữ không phải tự nhiên mà có, đó là thường là kết quả
của một quá trình học tập và rèn luyện nghiêm túc, công phu. Do vậy, không phải tình cờ mà mọi
cơ sở đào tạo về báo chí-truyền thông trên thế giới đều rất chú trọng việc giảng dạy, bồi dưỡng các
kiến thức về ngôn ngữ cho học viên.
Trong bài viết này, chúng tôi xin đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực về ngôn
ngữ cho học viên trong quá trình đào tạo nhà báo ở nước ta.
1. ĐIỀU CHỈNH CHƯƠNG TRÌNH GIẢNG DẠY CÁC MÔN HỌC VỀ NGÔN NGỮ CHO
HỢP LÍ, ĐÁP ỨNG NHU CẦU NGHỀ NGHIỆP SAU NÀY CỦA NGƯỜI HỌC
Hiện tại, trong chương trình đào tạo cử nhân báo chí hệ 4 năm có 3 môn học về ngôn ngữ là
Tiếng Việt thực hành (45 tiết), Ngôn ngữ báo chí (dao động từ 30 đến 60 tiết tuỳ theo từng đối
tượng học viên cụ thể) và Biên tập văn bản báo chí (45 tiết). Trong khi đó, trước đây sinh viên được
học 4 môn liên quan tới ngôn ngữ và với thời lượng cao hơn: Cơ sở ngôn ngữ học (60 tiết), Tiếng
Việt thực hành (60 tiết), Ngôn ngữ báo chí (60 tiết), Biên tập văn bản báo chí (60 tiết). Như vậy, rõ
ràng chương trình hiện nay có sự cắt giảm đáng kể so với trước kia. Tất nhiên, trong bối cảnh phải
đưa thêm những môn học mới vào chương trình đào tạo thì sự cắt giảm một số môn học nào đó là
không tránh khỏi. Nhưng nếu xuất phát từ quan niệm rằng ngôn ngữ là công cụ đặc biệt quan trọng
(nhiều trường hợp là duy nhất) của nhà báo thì việc cắt giảm nói trên chưa thực sự thoả đáng. Một
người không giỏi về sử dụng ngôn ngữ thì không thể trở thành nhà báo giỏi. Mà muốn giỏi, anh ta
rất cần được học hành đến nơi đến chốn.
Do vậy, theo chúng tôi, cần khôi phục lại môn Cơ sở ngôn ngữ học trong chương trình đào
tạo với thời lượng tối thiểu 45 tiết. Đây là môn học trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về
lý luận ngôn ngữ, giúp họ xác định được vai trò, chức năng và ý nghĩa của ngôn ngữ (nhất là tiếng
mẹ đẻ) trong đời sống nói chung và trong nghề nghiệp của học nói riêng; đồng thời, có được căn cứ
vững chắc để lý giải một cách khoa học nhiều tình huống liên quan đến thực tiễn sử dụng ngôn ngữ
sau này. Đặc biệt, môn Cơ sở ngôn ngữ học sẽ là nền móng không thể thiếu để để các học viên dựa
vào khi phải tiếp cận và chiếm lĩnh kiến thức của các môn thiên về thực hành ngôn ngữ như Tiếng
Việt thực hành, Ngôn ngữ báo chí, Biên tập văn bản báo chí.
Với môn “Tiếng Việt thực hành”, ngoài những nội dung hiện có, nên bổ sung thêm một
phần nói về các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong thuyết trình. Thực tế cho thấy, những kiến thức về
phương diện này luôn là nhu cầu bức thiết đối với các nhà báo, nhất là trong bối cảnh giao tiếp bằng
lời nói miệng nói chung, bằng lời nói miệng trực tiếp nói riêng đang ngày càng khẳng định rõ nét
vai trò quan trọng của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nếu quỹ thời gian dành cho
môn học không tăng (vẫn 45 tiết), có thể giảm bớt thời lượng của các thành tố nội dung truyền
thống (tạo lập văn bản, đặt câu, dùng từ) vốn được học viên làm quen từ chương trình phổ thông, để
có ít nhất 10 tiết cho phần nói về các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ trong thuyết trình.
Bên cạnh đó, cần tăng thời lượng cho môn Ngôn ngữ báo chí. Như chúng ta đều biết, ngôn
ngữ báo chí hiện nay bao gồm nhiều mảng, tuỳ thuộc vào loại hình báo chí: Ngôn ngữ báo in, ngôn
ngữ phát thanh, ngôn ngữ truyền hình, ngôn ngữ báo mạng điện tử; rồi trong mỗi loại hình lại có rất
nhiều thể loại (phóng sự, tin, bình luận, phỏng vấn ,) với những đặc điểm riêng về ngôn ngữ cần
được khảo sát. Mặt khác, trong bối cảnh đào tạo nhà báo-chuyên gia đang ngày càng được chú
trọng và trở thành xu hướng mang tính tất yếu trên phạm vi toàn cầu, việc nghiên cứu và giảng dạy
ngôn ngữ báo chí theo những chuyên đề gắn với các lĩnh vực mà nó phản ánh như: Ngôn ngữ báo
chí viết về môi trường, ngôn ngữ báo chí viết về thể thao, ngôn ngữ báo chí viết về khoa học-giáo
1
PGS. TS, Học viện Báo chí Tuyên truyền
Email: hoangbao2602@yahoo.com
dục, ngôn ngữ báo chí viết về văn hoá-văn nghệ, v.v. là hết sức cần thiết. Vĩ thế, theo chúng tôi,
thời lượng dành cho môn học này không thể dưới 60 tiết.
Ngoài ra, các môn học về ngôn ngữ nên được sắp xếp theo trình tự như sau trong quá trình
đào tạo: Năm thứ nhất, học Cơ sở ngôn ngữ học, năm thứ hai học Tiếng Việt thực hành, năm thứ ba
học Ngôn ngữ báo chí và năm thứ tư học Biên tập văn bản báo chí. Đây có lẽ là sự phân bố khoa
học hơn cả: đi từ lý luận đến thực tiễn, từ phổ quát đến chuyên biệt, thể hiện được mức độ tiếp cận
ngày càng sâu hơn của học viên đối với lĩnh vực nghiệp vụ của mình. Hơn nữa, bởi lẽ các môn học
về ngôn ngữ thường khó, lại khô khan, nên nếu bắt sinh viên học hai môn như vậy trong một năm
hay một học kỳ, chắc chắn họ sẽ thấy căng thẳng, thậm chí nhàm chán, không lĩnh hội được các tri
thức như mong muốn.
Với chương trình đào tạo Thạc sĩ và Tiến sĩ báo chí học cần có những chuyên đề riêng về
ngôn ngữ học để học viên tự chọn theo nhu cầu, chẳng hạn: Xu hướng vận động của ngôn ngữ báo
chí, Các loại hình ngôn ngữ truyền thông hiện đại, Ảnh hưởng của tiếng Anh đối với ngôn ngữ báo
chí tiếng Việt, v.v.
2. NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA CÁC GIẢNG VIÊN NGÔN NGỮ HỌC
Để làm việc này, theo chúng tôi, theo chúng tôi, các cơ sở đào tạo báo chí cần lưu ý một số
điểm sau:
Thứ nhất, các giảng viên phải là những người không chỉ có kiến thức chuyên môn vững
vàng (bao gồm cả những kiến thức chuyên sâu về ngôn ngữ học và cả những kiến thức cơ bản về
báo chí học), có khả năng sư phạm tốt, mà còn phải tích cực tham gia vào đời sống báo chí. Nói
cách khác, họ thường xuyên phải có các tác phẩm được đăng tải, và các tác phẩm đó phải thật sự
mẫu mực về sử dụng ngôn từ. Bằng việc này, họ đã làm gương cho học viên về ý thức và khả năng
thực hành các kiến thức họ truyền giảng trên lớp. Mặt khác, cũng thông qua đó, họ sẽ hiểu rõ hơn
những góc cạnh, những khó khăn, vất vả của nghề cầm bút. Từ đây, họ sẽ có sự chắt lọc, chọn lựa
kiến thức cũng như tư liệu phục vụ giảng dạy, tìm ra những phương diện cần ưu tiên để bài giảng
của mình gần gũi, thiết thực hơn với công việc của nhà báo.
Thứ hai, cần áp dụng triệt để và đồng bộ phương pháp giảng dạy tích cực, lấy học viên làm
trung tâm. Ngoại trừ môn Cơ sở ngôn ngữ học, ở các môn khác, lớp học phải trở thành nơi để học
viên sáng tạo và hoàn thiện tác phẩm báo chí (trước hết là ở góc độ ngôn ngữ) dưới sự điều hành,
hướng dẫn của giảng viên. Những giờ học sống động, bổ ích, mang tính rèn nghề rõ nét sẽ khơi dậy
trong học viên niềm ham thích đối với môn học, và qua đó củng cố hoặc làm tăng thêm tình cảm
yêu quý và thái độ trân trọng của họ đối với tiếng Việt - thứ ngôn ngữ mà hơn ai hết, họ có trách
nhiệm bảo vệ, giữ gìn sự trong sáng và thúc đẩy sự phát triển.Thứ ba, cần đổi mới cách biên soạn
giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ các môn học về ngôn ngữ. Đây là những môn học được giảng
dạy cho sinh viên báo chí cho nên các giáo trình, tài liệu tham khảo phải có những nét đặc thù của
nghề báo. Chúng cần được biên soạn phù hợp với phương pháp giảng dạy mới, mang nặng tính thực
hành, có tính hướng nghiệp cao. Những thành tố nội dung thiết thực hơn cả với nghề báo phải được
đặc biệt chú trọng. Các ví dụ minh hoạ phải được lấy từ thực tiễn báo chí, mang đậm dấu ấn thời sự
và có tính tiêu biểu cao. Trong trường hợp lý tưởng, những tài liệu như vậy phải thực sự trở thành
cẩm nang để các nhà báo tra cứu, tìm ra những chỉ dẫn cần thiết trong quá trình tác nghiệp của
mình.
Thực tiễn hoạt động báo chí đòi hỏi các giáo trình, tài liệu phục vụ giảng dạy và học tập
trong lĩnh vực này cần được chỉnh sửa, bổ sung chậm nhất là 5 năm 1 lần. Các ví dụ minh họa cần
có độ “mở” và “động” cao: trong sách, các ví dụ này có thể tồn tại 5 năm hoặc lâu hơn nhưng
những ví dụ được đưa ra trong các bài giảng phải thay đổi thường xuyên, không nên sử dụng quá 2
năm.
3. HOÀN THIỆN VỀ KĨ NĂNG TIẾNG VIỆT CHO CÁC GIẢNG VIÊN DẠY MÔN KHÁC
Thực tế cho thấy, có không ít giáo viên giảng dạy các môn học khác vẫn mắc phải một số
sai sót nhất định trong sử dụng ngôn từ: phát âm thiếu chính xác; viết câu sai ngữ pháp; dùng từ
không đúng về ý nghĩa, phong cách; vi phạm các quy tắc chính tả,v.v. Các sai sót này tất yếu sẽ ảnh
hưởng tiêu cực đến việc trau dồi các tri thức về ngôn ngữ của nhiều học viên. Những sinh viên có
năng lực khá, giỏi về sử dụng ngôn từ (số này không nhiều) có thể nhận diện được ngay cái gì đúng,
cái gì sai, và chỉ lựa chọn tiếp thu những cái đúng. Trong khi đó, những sinh viên có năng lực kém
hơn (số này chiếm phần đông) sẽ tiếp thu cả những cái sai. Điều đó gây ra những khó khăn không
nhỏ cho quá trình giảng dạy các môn học về ngôn ngữ.
Do vậy, các giảng viên cần không ngừng hoàn thiện các kỹ năng sử dụng tiếng Việt. Ngôn
ngữ của bất kỳ giảng viên nào cũng phải trong sáng, mẫu mực. Sống và học tập trong môi trường lý
tưởng như vậy, chắc chắn sinh viên sẽ có xu hướng nói đúng, viết đúng và nhanh chóng đạt được sự
tiến bộ trong sử dụng ngôn từ.
4. TĂNG CƯỜNG CÁC CHUYÊN GIA GIỎI VỀ NGÔN NGỮ BÁO CHÍ, CÁC NHÀ BÁO
CÓ NĂNG LỰC CAO VỀ SỬ DỤNG NGÔN TỪ THAM GIA GIẢNG DẠY VÀ TRUYỀN
ĐẠT KINH NGHIỆM
Hiện nay, ở nước ta, các chuyên gia nghiên cứu về ngôn ngữ báo chí không nhiều. Và do
ngôn ngữ báo chí vẫn còn là một địa hạt tương đối mới mẻ, những khám phá bước đầu của họ khó
tránh khỏi gây tranh cãi, cho nên không phải mọi thành quả của các nhà nghiên cứu đều được công
bố. Song, khi giảng dạy, để gia tăng tính thuyết phục cho bài giảng, họ có thể hé mở những thông
tin hết sức bổ ích, có giá trị cao cả về lý luận lẫn thực tiễn.Một đối tượng nữa mà các cơ sở đào tạo
báo chí cần quan tâm khai thác là các nhà báo bậc thầy trong sử dụng ngôn từ. Họ là "người trong
cuộc", là “nhân chứng sống” cho nên những buổi nói chuyện, trao đổi của họ về các kỹ năng viết
báo nói chung và từng tác phẩm cụ thể nói riêng chắc chắn sẽ có ý nghĩa hết sức thiết thực đối với
học viên.
5. CHỈ TUYỂN CÁC THÍ SINH CÓ NĂNG LỰC NGÔN NGỮ TỪ KHÁ TRỞ LÊN VÀO
KHOA BÁO CHÍ
Hiện nay, có một số sinh viên báo chí sau khi tốt nghiệp ra trường vẫn chưa có được trình độ
sử dụng ngôn ngữ như mong đợi. Các bài viết của họ mắc phải không ít lỗi sai cả về chính tả, cả về
từ vựng, cả về ngữ pháp, cả về phong cách. Trong bối cảnh như vậy, nếu được tham gia tác nghiệp
báo chí, chắc chắn họ sẽ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Trước hết là họ làm cho thông tin trở nên
khó hiểu, không hiểu nổi, thậm chí bị hiểu sai (điều này có thể gây ra những tác hại khó lường vì
báo chí có chức năng định hướng dư luận xã hội). Kế đó, họ làm phương hại đến sự trong sáng của
tiếng việt, tức là phương hại đến bản sắc văn hoá của dân tộc.
Nguyên nhân của tình trạng trên là bởi ngay từ đầu vào, các cơ sở đào tạo chưa thật sự chú ý
đúng mức đến vai trò quan trọng của ngôn ngữ đối với nghề làm báo, tiếp nhận cả những sinh viên
có năng lực trung bình, thậm chí yếu kém về phương diện ngôn ngữ (sở dĩ họ thi đỗ là nhờ các môn
khác đạt điểm cao).
Từ đây, chúng tôi kiến nghị nên chú trọng năng lực sử dụng ngôn ngữ của thí sinh ngay khi
tuyển đầu vào. Chẳng hạn nên tổ chức sơ tuyển để loại những người nói ngọng, thường xuyên mắc
các lỗi chính tả đơn giản, diễn đạt yếu, v.v. Và trong các điểm thi, riêng điểm môn Ngữ văn nên
được tính hệ số 2 để tăng cơ hội đỗ cho những người có năng lực ngôn ngữ tốt.
Có một điều các cơ sở đào tạo báo chí không thể không lưu tâm: các sinh viên chuyên ngành
ngôn ngữ học thường có khả năng viết báo rất tốt. Và nếu như được trang bị thêm các kiến thức nền
tảng về báo chí học thì chắc chắn họ sẽ là lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ đối với sinh viên báo chí
trên con đường trở thành nhà báo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Anh, Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí,Nxb Lao động, H.2003.
2. Hoàng Anh, Những kỹ năng về sử dụng ngôn ngữ trong truyền thông đại chúng, Nxb Đại học quốc gia,
H.2008.
3. Cao Xuân Hạo, Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, Nxb Trẻ, TP. HCM.2003.
4. Loic Hervouet - Viết cho độc giả (Lê Hồng Quang dịch), Hội Nhà báo Việt Nam, 1999.
5. Viện Ngôn ngữ học, Học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội,
H.1980.
SUMMARY
Some solutions to improve language competence of learners at journalism
schools
Hoang Anh
Academy of Journalism and Communication
Journalists’ language ability is not innate but achieved through a serious and painstaking process of
study and practice. In this article, we propose some solutions to improve journalism learners’
language competence in Vietnam.
1. Reasonably adjust language teaching schedule to meet actual demand of learners.
At present, the Bachelor course of Journalism (within 4 years) consists of 3 language subjects
including Practical Vietnamese (45 hours), Journalism language (from 30 to 60 hours, depending on
particular kind of learners) and Editing journalism writing (45 hours). In the past, there were four
language-relating subjects with longer time of learning which are The basis of language study (60
hours), Practical Vietnamese (60 hours), Journalism language (60 hours) and Editing journalism
writing (60 hours).
In our opinion, it is necessary to restore The basis of language study with at least 45 hours. As for
Practical Vietnamese, apart from the present content, the subject should have another part about
language skills in giving talks with at least 10 hours. Moreover, the time for Journalism language
should be up to 60 hours due to the various aspects of different kinds of journalism.
In addition, it would be helpful to put The basis of language study in the First year, Practical
Vietnamese in the Second year, Journalism language in the Third year and Editing journalism
writing in the Fourth year.
The Master and Doctor courses of Journalism should include optional special subjects about
language study for learners to choose, for example, The trend of journalism language, Different
kinds of modern communication language, The influence of English to Vietnamese journalism
language, etc.
2. Improve teaching quality of language lecturers
Firstly, lecturers must be those who have not only profound specialized knowledge in both language
and journalism but also good teaching methods and actively participate into journalism events.
Secondly, in language classes, learners should be encouraged to create and complete their work
under the operation and instruction of lecturers. Thirdly, there is a need to renovate the course book
and reference materials focusing on practical skills for learners.
3. Improve Vietnamese language competence of lecturers in other subjects.
4. Regularly invite experts in journalism language and journalists who have good ability of
language using to give talks and lectures about their experience.
5. Give priority to choose students who have good language competence to study journalism.